Chủ tịch Hồ Chí Minh là bậc vĩ nhân đã hiến trọn đời mình cho hạnh phúc của nhân dân. Sự nghiệp vĩ đại đó không chỉ bắt nguồn từ tình yêu thương con người, mà còn từ nhận thức sâu sắc của Người về hạnh phúc con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc con người thể hiện chủ nghĩa nhân văn sâu sắc, là cơ sở lý luận cho nhận thức của Đảng về hạnh phúc của nhân dân và gợi mở những giải pháp thiết thực để hiện thực hóa lý tưởng đó vào đời sống đất nước hôm nay.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ HẠNH PHÚC CON NGƯỜI
Mưu cầu hạnh phúc là khát vọng thường trực của con người, nên hạnh phúc có thể được tiếp cận từ nhiều giác độ khác nhau, đặc biệt là từ phương diện triết học. Chủ nghĩa Mác – Lênin với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã làm một cuộc “cách mạng” trong quan niệm về hạnh phúc. Trước hết, triết học Mác phản đối những quan điểm mang tính thần bí, duy tâm của tôn giáo về hạnh phúc và khẳng định, con người cần được hạnh phúc trong thực tại. Trong bối cảnh xã hội tư bản đầy rẫy bất công thì “Hạnh phúc là đấu tranh” – đấu tranh chống áp bức giai cấp và dân tộc, chống cái ác, cái phản văn hóa để xây dựng xã hội cộng sản, mà ở đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người. Ngược lại với quan điểm cho rằng hạnh phúc là sự “nhận về”, là thụ hưởng cá nhân, C. Mác nhận định, người nào đem lại hạnh phúc cho nhiều người nhất thì đó là người hạnh phúc nhất. Quan niệm đó đã trở thành nhân sinh quan của C. Mác: “Nếu ta đã chọn một nghề mà qua đó ta có thể cống hiến nhiều nhất cho nhân loại, thì ta sẽ không cảm thấy gánh nặng của nghề ấy bởi vì đó chính là sự hy sinh vì mọi người. Khi đó, niềm vui được hưởng không chỉ là một niềm vui ích kỷ, hẹp hòi và nhỏ nhen, mà hạnh phúc của ta sẽ thuộc về hàng triệu người”(1). Những quan điểm đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lênin đã tác động lớn đến thế giới quan, nhân sinh quan nói chung và nhận thức về hạnh phúc nói riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nổi bật nhất trong tư tưởng của Người về hạnh phúc là một số luận điểm chính sau:
Thứ nhất,con người chỉ có hạnh phúc khi dân tộc được độc lập, tự do.
Sinh ra trong bối cảnh “nước mất, nhà tan”, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu bi kịch của thân phận người dân mất nước – “vong quốc nô”. Chế độ thuộc địa của Pháp ở Đông Dương hoàn toàn đối lập với ngọn cờ “Tự do, bình đẳng, bác ái” của cách mạng tư sản Pháp. Với tất cả sự đau xót và căm phẫn, trong thư ngỏ gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp An-be Xa-rô, Nguyễn Ái Quốc đã mỉa mai, lên án: “Dưới quyền cai trị của ngài, dân An Nam đã được hưởng phồn vinh thật sự và hạnh phúc thật sự, hạnh phúc được thấy nhan nhản khắp trong nước, những ty rượu và ty thuốc phiện, những thứ đó song song với những sự bắn giết hàng loạt, nhà tù, nền dân chủ và tất cả bộ máy tinh vi của nền văn minh hiện đại, đã làm cho người An Nam tiến bộ nhất châu Á và sung sướng nhất trần đời”(2). Sống dưới chế độ phản động cùng cực đó, người dân các nước thuộc địa phải gánh chịu muôn vàn đau khổ, nên con đường tất yếu, duy nhất của họ là: Đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thành lập các quốc gia độc lập. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã giúp dân tộc Việt Nam tái sinh, nhưng kẻ thù đế quốc vẫn nuôi dã tâm đàn áp, bắt nhân dân Việt Nam phải làm nô lệ. Với quan điểm hạnh phúc của mỗi người dân không thể tách rời nền độc lập dân tộc, nên khi thực dân Pháp “quyết cướp nước ta một lần nữa”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Dù phải kháng chiến 5 năm, 10 năm, hay là lâu hơn nữa, để giữ gìn thống nhất và độc lập cho Tổ quốc, để tranh lấy tự do và hạnh phúc cho giống nòi, chúng ta cũng quyết kháng chiến cho đến thắng lợi cuối cùng”(3). Khi đế quốc Mỹ âm mưu dùng sức mạnh vật chất để hủy diệt ý chí thống nhất của dân tộc Việt Nam, Người đã đưa ra chân lý thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Theo lời hiệu triệu của Người, nhân dân Việt Nam đã tự nguyện dâng hiến, sẵn sàng hy sinh, kiên quyết đấu tranh để bảo vệ niềm hạnh phúc của con người tự do.
Thứ hai,con người chỉ có hạnh phúc thực sự dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Hạnh phúc trước hết là hạnh phúc của nhân dân lao động. Ngay trong tác phẩm Đường Cách mệnh (năm 1927), Người đã khẳng định: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”(4). Theo Người, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại khỏi lầm than, đem lại cho mọi người sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no mà không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc. Từ sự am hiểu sâu sắc đặc tính bản chất của các loại hình xã hội đương thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, “không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”(5). Chủ nghĩa xã hội là nấc thang phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mọi phương diện, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc thực sự cho con người, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ góc độ lợi ích và tính ưu việt của chế độ mới, nhằm làm cho nhân dân lao động thoát khỏi nạn bần cùng, mọi người đều có việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Người đã rút ra kết luận: “Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”(6).
Thứ ba,mang lại hạnh phúc cho nhân dân là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nếu nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập ấy cũng chẳng có nghĩa lý gì. Hạnh phúc luôn bao hàm sự thỏa mãn, hài lòng khi được hưởng thụ giá trị vật chất và tinh thần xứng đáng, khi được làm chủ xã hội, làm chủ bản thân. Người cũng thấu hiểu, nhân dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi được ăn no, mặc đủ. Chính vì vậy, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ tuyên bố “các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người”(7) thì tất yếu Chính phủ có trách nhiệm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, thực hiện dân quyền; trong đó, làm cho người dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, có điều kiện học hành là nhiệm vụ cấp bách nhất. Sự hài lòng về chính thể cũng mang lại cho nhân dân niềm hạnh phúc, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu các cơ quan của Chính phủ phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Luôn tâm niệm, coi hạnh phúc của nhân dân là lý tưởng duy nhất của Đảng nên trong bản Di chúc thiêng liêng, Người đã căn dặn, Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Thứ tư,muốn có hạnh phúc, toàn dân phải đoàn kết phấn đấu và cán bộ phải biết hy sinh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải dựa vào nhân dân để đem lại hạnh phúc cho nhân dân, bởi vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Do nước ta còn nghèo nên Người nhắn nhủ: “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”(8). Nói về sự cần thiết phải quy tụ sức dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng hình ảnh: “Từng giọt nước nhỏ thấm vào lòng đất, chảy về một hướng mới thành suối, thành sông. Biết bao nhiêu giọt nước nhỏ hợp lại mới thành biển cả”(9). Nếu mỗi người dân đều tự giác làm lợi cho đất nước thì “nhiều lợi nhỏ cộng thành lợi to”, nhất định đất nước sẽ giàu và người dân sẽ được hạnh phúc. Hạnh phúc ở đây không chỉ là sự thụ hưởng, mà còn là hạnh phúc của con người tự tạo dựng cuộc đời mình; bởi lẽ, người nào chỉ biết trông chờ vào hạnh phúc “từ trên trời rơi xuống” sẽ không xứng đáng được hưởng hạnh phúc và sự thật là không thể có hạnh phúc.
Khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất kiên trì giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; bởi vì, nếu cán bộ tha hóa thì lợi ích, hạnh phúc của nhân dân sẽ bị tước đoạt. Người nói rõ: “Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công bình, chính trực” vào lòng”(10). Khi yêu cầu cán bộ, đảng viên thực hành đức hy sinh để phụng sự nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, sự hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân là niềm hạnh phúc to lớn; vì thế, “ta đã biết cần phải chịu khổ, thì ta chịu một cách vui vẻ, dần dần ta sẽ không lấy làm khổ… chúng ta vì nước, vì dân mà chịu khổ, một cái khổ rất có giá trị, thì vật chất càng khổ tinh thần càng sướng”(11).
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hạnh phúc rất sâu sắc, không chỉ thông qua những quan điểm đầy tính khoa học, nhân văn, mà còn được bảo chứng bởi cuộc đời trọn vẹn đức hy sinh của Người. Người đã nói về trách nhiệm của mình trước dân tộc: “Vì yêu mến và tin cậy tôi, mà đồng bào giao vận mệnh nước nhà, dân tộc cho tôi gánh vác. Phận sự tôi như một người cầm lái, phải chèo chống thế nào để đưa chiếc thuyền Tổ quốc vượt khỏi những cơn sóng gió, mà an toàn đi đến bờ bến hạnh phúc của nhân dân”(12). Suốt đời phấn đấu, hy sinh trọn vẹn cho hạnh phúc của nhân dân nên Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn sống mãi trong lòng nhân dân.
CHĂM LO HẠNH PHÚC CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi Đại hội thời kỳ đổi mới lại là một “nấc thang” trong tiến trình nhận thức của Đảng ta về hạnh phúc của nhân dân. Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh, đổi mới được tiến hành với tinh thần “Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”. Trước sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, Đảng kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa; bởi vì nhận thấy rõ, “chỉ có chủ nghĩa xã hội mới mang lại cơm no áo ấm, hạnh phúc cho nhân dân”(13). Đề cao giá trị hạnh phúc nên Cương lĩnhxây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) và Cương lĩnhxây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đều xác định, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội mà trong đó, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển toàn diện cá nhân. Đảng ta không chỉ nhấn mạnh trách nhiệm của nhân dân trong công cuộc phấn đấu vì hạnh phúc của chính mình, mà còn lấy hạnh phúc của nhân dân làm thước đo đạo đức đảng viên khi khẳng định: “Phẩm chất cao quý của người cộng sản là… suốt đời phấn đấu vì lý tưởng cách mạng, vì độc lập của Tổ quốc và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, trong đó có bản thân và gia đình mình”(14).
Đến Đại hội XIII của Đảng, hạnh phúc của nhân dân trở thành “âm hưởng chủ đạo” và được đề cập dưới nhiều góc độ. Đại hội đúc kết, “lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu” là bài học quý báu; xác định “khơi dậy tinh thần và ý chí, quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” là động lực to lớn để phát triển đất nước; đồng thời, nhấn mạnh “nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam” là một nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ.
Tuy nhiên, hiện nay việc bảo đảm hạnh phúc của nhân dân đang gặp không ít trở lực, khó khăn. Trên thế giới, nguy cơ về đe dọa vũ khí hạt nhân, xung đột vũ trang, dịch bệnh, biến đổi khí hậu… đang là mối đe dọa lớn đối với sinh mệnh, sức khỏe và đời sống sản xuất của toàn nhân loại. Ở trong nước, ô nhiễm môi trường, sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và sự yếu kém trong giải quyết các vấn đề xã hội ở một số nơi, sự xuống cấp của văn hóa, đạo đức xã hội, sự gia tăng khoảng cách giàu – nghèo, tệ nạn xã hội, tội phạm… cũng gây ra nhiều trở ngại để người dân tiếp cận hạnh phúc. Đối ngược với sự bất cập đó là nhu cầu hạnh phúc ngày càng lớn của người dân và xu thế đề cao hạnh phúc của nhân loại. Năm 2012, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã lấy ngày 20-3 (ngày duy nhất mà mặt trời nằm ngang đường xích đạo, độ dài ngày đêm bằng nhau) là ngày Quốc tế Hạnh phúc (International Day of Happiness) để truyền đi thông điệp: Mưu cầu hạnh phúc là mục tiêu cơ bản của con người; hạnh phúc và thịnh vượng là các mục tiêu và khát vọng phổ quát của con người và tầm quan trọng của việc thừa nhận điều này trong các mục tiêu của chính sách công; cần có cách tiếp cận toàn diện, công bằng và cân bằng hơn đối với tăng trưởng kinh tế nhằm thúc đẩy phát triển bền vững, xóa đói, giảm nghèo, hạnh phúc và thịnh vượng của mọi dân tộc. Việt Nam là một trong gần 200 quốc gia cam kết hưởng ứng ngày Quốc tế Hạnh phúc. Ngày 26/12/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2589/QĐ–TTg “Phê duyệt Đề án“Tổ chức các hoạt động nhân ngày Quốc tế Hạnh phúc 20 tháng 3 hằng năm””. Do đã trải qua thời kỳ chiến tranh ác liệt kéo dài và thời kỳ bao cấp khốn khó, nên khát vọng hạnh phúc, ấm no của nhân dân Việt Nam là rất mãnh liệt. Vì thế, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước trong việc đem lại hạnh phúc cho nhân dân lại càng trở nên cấp bách. Theo đó, từ tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc con người, cần đặc biệt chú trọng các giải pháp sau đây:
Một là,nâng cao nhận thức về hạnh phúc của nhân dân cả từ phía Đảng, Nhà nước và người dân.
Hạnh phúc là hợp điểm giữa điều kiện khách quan và cảm nhận chủ quan. Về mặt khách quan, hạnh phúc là những giá trị vật chất, tinh thần tốt đẹp mà quốc gia, cộng đồng xã hội cần tạo lập để bảo đảm cho người dân có được một cuộc sống an lành, đầy đủ. Về mặt chủ quan, hạnh phúc là trạng thái tinh thần tích cực, thể hiện sự hài lòng của chủ thể trước bối cảnh, điều kiện tự nhiên, xã hội, gia đình và bản thân. Vì thế, để hiện thực hóa khát vọng về hạnh phúc thì phải nâng cao nhận thức về hạnh phúc cả từ phía lực lượng lãnh đạo, quản lý đất nước và người dân.
Kế thừa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về trách nhiệm phụng sự nhân dân, đội ngũ cán bộ, đảng viên không chỉ cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của hạnh phúc nhân dân với tư cách là động lực, mục tiêu của cách mạng, mà còn phải thấm nhuần chân lý: Người hiến dâng nhiều nhất sẽ là người hạnh phúc nhất. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết rằng: “Hạnh phúc của con người không phải chỉ ở chỗ nhiều tiền, lắm của, ăn ngon, mặc đẹp, mà còn ở sự phong phú về tâm hồn, được sống giữa tình thương và lòng nhân ái, lẽ phải và công bằng”(15). Nếu người cán bộ, đảng viên biết vượt lên trên cái “tôi” của mình để hiến dâng cho nhân dân và đất nước thì họ sẽ là người hạnh phúc, vì tượng đài vững chắc nhất chính là ở trong lòng nhân dân.
Đối với nhân dân, hạnh phúc không chỉ phụ thuộc vào những yếu tố “bên ngoài”, mà còn phụ thuộc vào yếu tố “bên trong”; chính là tâm hồn, khả năng nhận thức của họ về hạnh phúc. Người nào cho rằng, bản thân không thể hạnh phúc thì người ấy đã tự tước đi cơ hội hạnh phúc của chính mình. Ngược lại, một người coi hạnh phúc không chỉ là đích đến, mà là quá trình đến đích; hạnh phúc là sự chia sẻ, yêu thương, là biết “đủ”, biết làm chủ bản thân, làm chủ hoàn cảnh, biết khoan dung với người, với mình, biết coi khó khăn là một phần tất yếu của cuộc sống… thì người đó sẽ được an nhiên, hạnh phúc. Nhìn chung, để “hạt giống hạnh phúc nở hoa”, mỗi người phải có một tâm thế đúng. Vì thế, tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về giá trị sống đúng đắn, khơi dậy khát vọng cống hiến trong mỗi con người cũng là trách nhiệm cao cả của Đảng, Nhà nước.
Hai là,hoàn thiện thể chế về quyền con người và cơ chế nâng cao chỉ số hạnh phúc của nhân dân.
Con người hạnh phúc phải là con người tự do và có cảm nhận an toàn khi các quyền của họ được hiến định đầy đủ về mặt pháp lý và được thực thi trong thực tiễn. Việt Nam từng là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 – 2016 và hiện nay là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 – 2025; điều này chứng tỏ, Nhà nước Việt Nam luôn nỗ lực mở rộng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đồng thời, muốn nhân dân được hưởng đầy đủ các quyền hợp pháp, chính đáng của mình như quy định của Hiến pháp, Nhà nước phải có kế hoạch lập pháp dài hạn để hiện thực hóa các quyền trong Hiến pháp.
Trong thế giới hiện đại, hạnh phúc không chỉ là sự cảm nhận đơn thuần, mà ngày càng mang tính định lượng. Một số tổ chức quốc tế và nước ngoài đã đề xuất các đại lượng cơ bản để đo lường hạnh phúc, như Chỉ số hạnh phúc (Happiness Index, viết tắt là HI), Chỉ số Hạnh phúc hành tinh (Happy Planet Index, viết tắt là HPI) và Báo cáo Hạnh phúc thế giới (World Happiness Report, viết tắt là WHR)… Trong xu hướng chung, Việt Nam đã thử nghiệm xây dựng Chỉ số hạnh phúc quốc gia của Việt Nam (Vietnam’s National Happiness Index, viết tắt là VNHI), được tính toán trên cơ sở bốn nhóm tiêu chí về kinh tế, xã hội, môi trường, hiệu quả quản trị và hành chính công. Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu sâu và qua đó, cụ thể hóa chương trình hành động của từng đơn vị trong hệ thống chính trị để nâng cao chỉ số hạnh phúc của nhân dân.
Ba là,tiếp tụcđẩy mạnh phát triển kinh tế để nâng cao mức sống của nhân dân.
Thực tế đã chứng minh, giàu có chưa chắc đã hạnh phúc, nhưng điều chắc chắn là trong một đất nước đói nghèo thì người dân không thể có hạnh phúc; sự tăng trưởng kinh tế luôn là điều kiện “gốc” để nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Ở Việt Nam, khi tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm. Mong muốn nhân dân được ấm no, sung sướng, dân tộc cường thịnh, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam sẽ trở thành “nước phát triển, thu nhập cao”. Để đạt mục tiêu đó, lúc này, Việt Nam phải nhanh chóng hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tăng cường đầu tư cho khoa học, công nghệ, giáo dục, chú trọng bảo vệ môi trường để bảo đảm cả hai yêu cầu trong chiến lược phát triển kinh tế là vừa “nhanh”, vừa “bền vững”.
Bốn là,tiếp tục phát huy dân chủ, nâng cao chất lượng dịch vụ công.
Do dân chủ vừa là động lực phát triển, vừa là điều kiện của hạnh phúc nên Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung một nội dung mới, quan trọng, đó là “dân thụ hưởng”, để hình thành phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(16). Việc đề cao yếu tố “dân thụ hưởng” sẽ góp phần “khai thông” nguồn lực vô tận trong nhân dân, thúc đẩy đất nước phát triển mạnh mẽ để người dân tiếp tục thụ hưởng và cống hiến.
Hạnh phúc của người dân luôn bao hàm sự hài lòng về chế độ, đặc biệt là chất lượng dịch vụ công. Chính thái độ và phong cách làm việc của đội ngũ công chức có thể làm cho người dân yên tâm hay lo lắng, tin tưởng hay nghi ngờ vào bộ máy công quyền. Do vậy, phải chú trọng nâng cao chất lượng quản trị quốc gia, nỗ lực làm trong sạch bộ máy công quyền, nâng cao đạo đức công vụ; vì thực tế đã cho thấy, sự trục lợi của cán bộ có chức, có quyền đã làm vô hiệu hóa các chính sách vì con người của Đảng và Nhà nước. Việc xây dựng chính phủ điện tử để nâng cao tính minh bạch của nền hành chính công, tránh cho người dân những cảm xúc tiêu cực… cũng là nhiệm vụ cấp thiết.
Năm là, đẩy mạnh thực hiện tiến bộ,công bằng xã hội, bảo đảm an ninh con người, an sinh xã hội.
Sự bất công là nguồn gốc của xung đột xã hội, tạo ra nguy cơ đe dọa sự ổn định của đất nước. Trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức ngày càng rõ mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội. Yêu cầu đặt ra là Nhà nước có chính sách phù hợp để kiểm soát việc phân tầng xã hội, tiếp tục thực hiện chiến lược “xóa đói, giảm nghèo” bền vững, cải cách tiền lương, nâng mức trợ cấp xã hội cho các đối tượng chính sách… Đặc biệt, cần nhận thức sâu sắc rằng, tham nhũng là biểu hiện rõ nhất của sự bất công, nên phải đẩy mạnh công cuộc phòng, chống tham nhũng, chống thất thoát để dồn nguồn lực cho phát triển và gia tăng phúc lợi xã hội.
Vấn đề an ninh con người cần được chú trọng, bởi con người không thể hạnh phúc nếu luôn cảm thấy bất an vì tệ nạn xã hội, mất an toàn thực phẩm, mất an toàn giao thông hay nguy cơ dịch bệnh, thiên tai rình rập… Thế giới đang phải đối diện với hiện tượng mới là “tị nạn khí hậu” và Việt Nam là một quốc gia chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu, nên Nhà nước phải có kế hoạch, nguồn lực để ứng phó hiệu quả. Đây là những vấn đề lớn mà người dân không thể tự mình giải quyết được và Nhà nước phải thực hiện trách nhiệm bảo hộ công dân của mình trên tinh thần “an dân, trị quốc”.
Khi các tầng lớp dân cư, các nhóm xã hội có điều kiện sống khác biệt nhau, thì để thực hiện phương châm “không để ai tụt lại phía sau” và mọi người dân đều được hưởng thụ thành quả của đổi mới, Nhà nước phải xây dựng hệ thống an sinh xã hội nhiều tầng nấc, giúp người dân giảm thiểu rủi ro và chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau; phải có chính sách thiết thực hơn nữa để nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam; nền y tế Việt Nam phải xác định luôn lấy mục tiêu phục vụ nhân dân làm trọng tâm.
Tầm vóc tư tưởng của một nhà hiền triết luôn thể hiện ở mức độ quan tâm đến con người, lấy đó làm trung tâm của mọi suy tư, hành động và Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là nhà hiền triết với nghĩa cao quý đó. Dân tộc, đất nước Việt Nam có niềm hạnh phúc là nơi sản sinh ra con người vĩ đại Hồ Chí Minh. Để cho hạnh phúc ấy được vững bền, nhân lên gấp bội, mỗi người Việt Nam, trước hết là cán bộ, đảng viên, phải thấm nhuần và thực hiện tốt tư tưởng Hồ Chí Minh, nỗ lực sống một cuộc đời hữu ích, góp phần xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; bởi lẽ, hạnh phúc của nhân dân chính là thước đo chuẩn xác nhất về tính ưu việt của chế độ xã hội và năng lực, bản lĩnh của đảng cầm quyền./.
PGS. TS. TRẦN THỊ MINH TUYẾT
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
_____________________
(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1994, t 40, tr.18.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.1, tr.109.
(13) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, t.49, tr.764.
(14) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2007, t.54, tr.142.
(15) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2022, tr.159 .
(16) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.II, tr.249.