CSXH và chăm lo phát triển con người toàn diện qua tác phẩm “Một số vấn đề LL và TT về CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN” của TBT Nguyễn Phú Trọng

Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

Tác phẩm minh chứng cho con đường đi lên xã hội chủ nghĩa là đúng đắn và khẳng định “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Những thành tựu đó có được là nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng; bản chất ưu việt của hệ thống chính trị nước ta – hệ thống chính trị của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với các cháu thiếu nhi huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa _Ảnh: TTXVN

Bàn về mục tiêu phát triển xã hội theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng viết: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người(1). Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh.

Chính sách xã hội có ý nghĩa vô cùng quan trọng, chi phối trực tiếp đời sống tinh thần và vật chất của mỗi gia đình, người dân và các địa phương, thể hiện đặc trưng và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu bao trùm của chính sách xã hội là nhằm mang lại cho mọi người dân trong xã hội một cuộc sống tốt đẹp, phát triển xã hội một cách bền vững, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể và truyền thống văn hóa của dân tộc, bảo đảm công bằng, tiến bộ và bình đẳng để nâng cao chất lượng cuộc sống, hạnh phúc của nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân; kết hợp chặt chẽ và hợp lý giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách”(2).

Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, Đảng ta luôn quán triệt quan điểm chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Đảng xác định: “Huy động mọi khả năng của Nhà nước và của nhân dân, trung ương và địa phương để giải quyết các vấn đề của chính sách xã hội”(3). Trong đó, “Nhà nước giữ vai trò nòng cốt”(4) và “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”(5) thông qua “Tạo môi trường và điều kiện để mọi lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn…”(6) để “Mọi người dân đều có cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện”(7). Đảng yêu cầu có giải pháp “Giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội… Coi trọng chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác dân số – kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em; xây dựng gia đình hạnh phúc”(8).

Từ những văn kiện đầu tiên, Đảng ta xác định rõ mục tiêu cơ bản và lâu dài của cách mạng là bảo đảm quyền con người cho người dân Việt Nam. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, XIII, Đảng đã bổ sung, phát triển nhiều quan điểm mới về xây dựng, phát triển con người. Những quan điểm này không chỉ là sự bổ sung về mặt lý luận, mà còn được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, giải pháp, định hướng cụ thể trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Nhận thức sâu sắc cùng với quyết tâm đổi mới toàn diện đất nước của Đảng đã tạo điều kiện cho chính sách xã hội phát triển trên cả 3 nội dung cơ bản: Nâng cao năng lực vốn con người (thông qua tăng cường phúc lợi toàn dân), cải thiện môi trường hoạt động của con người (thông qua phát triển các chính sách lao động, việc làm, y tế, giáo dục, phát triển doanh nghiệp, kết cấu hạ tầng…) và bảo đảm an sinh xã hội (thông qua các chính sách hỗ trợ người yếu thế tham gia thị trường lao động, tăng cường bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội và giảm nghèo).

Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng toát lên giá trị lý luận và thực tiễn trong xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Trong Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 1-6-2012, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XI, “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020”, Đảng ta đưa ra mục tiêu đến năm 2020, cơ bản bảo đảm an sinh xã hội toàn dân, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và thông tin, truyền thông, góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân. Đến Đại hội XII, Đảng ta đặt ra quan điểm phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, đồng thời khẳng định: “Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước”(9).

Kế thừa và phát triển thành quả đạt được trong các kỳ đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân”(10). Mặt khác, Văn kiện Đại hội XIII xác lập phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội là một trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030. Trong đó, nhấn mạnh: “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, an ninh con người”(11).

Như vậy, những bước tiến trong tư duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hơn 35 năm đổi mới vừa qua là cơ sở quan trọng định hướng hoạt động thực tiễn để chúng ta đạt được những thành tựu to lớn trong tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có những thành tựu vượt bậc về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Đó là sự phát triển từ quan điểm chú trọng phát triển xã hội đơn chiều đến quan điểm phát triển xã hội bền vững mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tiếp bước sáng tạo tư duy, lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tổng kết và nâng tầm lý luận, tiếp tục gợi mở một số điểm còn chưa rõ trong chính sách xã hội của Việt Nam để tiếp tục nghiên cứu và tổng kết thực tiễn. Đồng thời, cũng đánh giá thành quả đạt được trong thực hiện chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội thời gian qua đã góp phần hiện thực hóa quan điểm lấy con người là trung tâm và không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển. Kết quả thực hiện chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào nỗ lực phát triển con người Việt Nam cả về kinh tế, giáo dục và sức khỏe, vì hạnh phúc của người dân.

Phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa với mục tiêu vì con người đã mang lại những thay đổi vượt bậc, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam ngày càng tiến bộ. Điểm số HDI tăng từ 0,48 năm 1990 lên 0,71 năm 2020, Việt Nam được chuyển từ nhóm trung bình lên nhóm “các quốc gia phát triển con người cao”, đứng ở vị trí 117/189 quốc gia; Việt Nam cũng xếp thứ hạng cao về chỉ số vốn nhân lực (HCI), chỉ đứng sau Xin-ga-po trong khu vực Đông Nam Á.

Phát triển kinh tế thành công và chủ trương, đường lối của Đảng về không ngừng nâng cao đời sống nhân dân đã trở thành hiện thực, được nhân dân đồng tình, ủng hộ và quốc tế đánh giá cao.

Từ xuất phát điểm thấp, khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng, người dân nhiều nơi thiếu ăn, thiếu mặc, hơn 2/3 hộ dân là hộ nghèo, là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới với thu nhập bình quân đầu người khoảng 100 USD những năm 90, đến năm 2020, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 3.700 USD, gấp 37 lần trong vòng hơn ba thập niên. Đời sống của nhân dân trên khắp các vùng, miền, mọi thành phần, dân tộc đều được nâng lên là tiền đề và điều kiện cơ bản để bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người và phát triển con người.

Từ một quốc gia hơn 70% dân số nghèo đói năm 1990, đến năm 2021 tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 2,23%. Thu nhập bình quân của hộ nghèo tăng 3,5 lần trong 10 năm qua. Mức sống của người nghèo, người dân trên địa bàn nghèo, vùng đặc biệt khó khăn được cải thiện rõ rệt. Người nghèo có khả năng lao động được hỗ trợ sinh kế phù hợp với nhu cầu, được hỗ trợ học nghề, tạo việc làm, bồi dưỡng kiến thức sản xuất, kinh doanh, được hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng để vươn lên thoát nghèo và làm giàu. Việt Nam là một trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là quốc gia đầu tiên của châu Á áp dụng chuẩn nghèo đa chiều.

Chính sách người có công với cách mạng được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm và được thực hiện tốt nhất trong điều kiện kinh tế – xã hội cho phép; đã trở thành phong trào đền ơn đáp nghĩa sâu rộng, xuyên suốt từ Trung ương đến các làng, bản, thôn, xóm. Công tác chăm lo đời sống gia đình người có công và làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ đã thu hút được sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Đến năm 2020, bảo đảm 99,5% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của cộng đồng dân cư nơi cư trú.

Thể chế thị trường lao động từng bước được hoàn thiện, trở thành giải pháp cơ bản để giải quyết việc làm. Các chính sách hỗ trợ tạo việc làm góp phần thực hiện mục tiêu toàn dụng lao động, giảm thất nghiệp. Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương đã triển khai nhiều chương trình và giải pháp tạo việc làm đồng bộ, tích cực, hiệu quả. Kết quả tạo việc làm đạt thành công nổi bật, trong nhiều năm qua, hằng năm đã tạo được khoảng 1,5 – 1,6 triệu lượt việc làm cho người lao động. Tỷ lệ thất nghiệp chung duy trì ổn định ở mức dưới 3%, tỷ lệ thất nghiệp thành thị dưới 4%, giúp Việt Nam trở thành một trong những nước có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất trên thế giới. Cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực, tỷ lệ lao động khu vực nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 45% năm 2015 xuống còn 32% năm 2020. Hiện nay, có khoảng 600.000 người lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng với thu nhập ổn định, gửi về nước lượng kiều hối lớn, khoảng 3,5 tỷ USD/năm.

Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Tiền lương và thu nhập được cải thiện tích cực giúp bảo đảm đời sống người lao động, thu nhập bình quân của người lao động năm 2020 là 4,2 triệu đồng/tháng, tăng 3 lần trong 10 năm qua. Chính sách tiền lương tối thiểu được điều chỉnh hằng năm, đến nay, mức tiền lương tối thiểu vùng đã cơ bản bảo đảm mức sống tối thiểu, góp phần bảo đảm thu nhập cho người lao động.

Nhận thức về học nghề, phát triển giáo dục nghề nghiệp trong toàn xã hội và người dân đã có chuyển biến mạnh mẽ; vị thế, vai trò của hệ thống giáo dục nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục quốc dân được nâng cao. Giáo dục nghề nghiệp đạt được những thành tựu nổi bật, số lượng tuyển sinh tăng hằng năm, cơ sở vật chất được quan tâm đầu tư, chất lượng đào tạo từng bước được cải thiện, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường. Kết quả giáo dục nghề nghiệp đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2020 đạt 70,25%, tăng 1,53 lần so với năm 2012 (46%). Tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 3 tháng trở lên có bằng cấp/chứng chỉ tăng từ 15,58% năm 2011 lên 26,1% vào năm 2021.

Chính sách bảo hiểm xã hội trở thành trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội. Diện bao phủ bảo hiểm xã hội ngày càng mở rộng, tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội tăng đều hằng năm, đạt 36% năm 2021. Hiện nay, có trên 3,3 triệu người đang được hưởng chế độ hưu trí và trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng. Đặc biệt, việc phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện theo tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 23-5-2018, của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội” đã tăng cơ hội cho nông dân, lao động khu vực phi chính thức, lao động thu nhập thấp tham gia. Chỉ trong 3 năm 2019 – 2021 đã phát triển mới khoảng 1 triệu người, gấp 5 lần 10 năm trước đây. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp đã hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động khi chấm dứt hợp đồng, mất việc làm, trong giải quyết chế độ, chính sách đối với người lao động, đặc biệt là khi doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính; tạo sự gắn kết, chia sẻ giữa những người tham gia; tạo sự hỗ trợ lẫn nhau trong cộng đồng doanh nghiệp. Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp tăng từ 8,27 triệu người năm 2012 lên gần 13,4 triệu người năm 2021 (chiếm 30% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp).

Công tác trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn từng bước chuyển từ quan điểm nhân đạo sang hướng tiếp cận dựa trên quyền, lấy con người là trung tâm. Các chính sách trợ giúp xã hội đã bao phủ hầu hết nhóm đối tượng ở mọi lứa tuổi, 3,5% dân số và 100% đối tượng bảo trợ xã hội đủ điều kiện được hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên hằng tháng; trẻ em được bảo vệ và chăm sóc, xây dựng môi trường sống an toàn để thực hiện đầy đủ quyền trẻ em; chăm sóc và phát huy tốt hơn vai trò người cao tuổi; người khuyết tật được trợ giúp phục hồi chức năng, đào tạo nghề và tạo việc làm nên đời sống ổn định và từng bước được cải thiện.

Chỉ số phát triển giới của Việt Nam nằm trong các quốc gia thuộc nhóm cao nhất trong 5 nhóm trên thế giới. Vai trò, địa vị của phụ nữ được củng cố và nâng cao cả trong gia đình và ngoài xã hội. Tỷ lệ nữ là lãnh đạo trong các cơ quan Đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương, trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh đều tăng. Phụ nữ chiếm khoảng 48% lực lượng lao động, chiếm 50% đối tượng thụ hưởng chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

Về chăm sóc y tế, việc hoàn thiện chính sách, tăng đầu tư của ngân sách nhà nước và cải tiến phương thức thực hiện đã tạo đột phá về tỷ lệ bao phủ của bảo hiểm y tế, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia và thụ hưởng các chế độ bảo hiểm y tế. Đến năm 2021, cả nước có 88,8 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, chiếm 91% dân số; tỷ lệ trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ đạt 96% – 98%; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần; tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 74 tuổi vào năm 2020. Y tế dự phòng được tăng cường, đã ngăn chặn được các bệnh dịch nguy hiểm, không để xảy ra dịch trên quy mô lớn, ngăn ngừa thành công các đợt bùng phát trong đại dịch COVID-19. Hệ thống y tế cơ sở được tăng cường, nhất là ở các huyện nghèo và các xã đặc biệt khó khăn, bao gồm cả hạ tầng trạm y tế, bệnh viện và cán bộ y tế.

Giáo dục và đào tạo ngày càng quan tâm đến con người, vì mục đích phát triển tự do, toàn diện con người. Đã có nhiều bước chuyển tích cực từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng hơn về chất lượng và hiệu quả. Hệ thống giáo dục chuyển dịch theo hướng linh hoạt, liên thông, mở giữa các bậc học, cấp học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục và đào tạo. Về giáo dục, đã hoàn thành trước thời hạn phổ cập giáo dục từ cấp mầm non (trẻ 5 tuổi) đến trung học cơ sở; 95% người lớn biết đọc, biết viết; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ đạt 26,1%. Mạng lưới các trường chuyên biệt vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tiếp tục tăng quy mô, tăng số lượng học sinh được học trong các trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú và dự bị đại học. Các chương trình, chính sách hỗ trợ giáo dục cho con em hộ nghèo, dân tộc thiểu số, vùng khó khăn được triển khai hiệu quả; đã có một số giải pháp phát huy mặt tích cực và hạn chế khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong giáo dục và đào tạo. Giai đoạn 2016 – 2020 ngân sách nhà nước chi cho giáo dục và đào tạo bình quân đạt khoảng 20% tổng chi ngân sách.

Trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định đạt được những thành quả nêu trên là do chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta; sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, toàn diện, trực tiếp của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền; sự tham gia tích cực của nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực, chúng ta vẫn còn không ít khuyết điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới trong quá trình phát triển đất nước; khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp; chất lượng lao động và việc làm còn thấp, thị trường lao động chậm phát triển; giảm nghèo chưa bền vững, chênh lệnh mức sống giữa vùng, miền, nhóm đối tượng còn lớn; phạm vi bao phủ của bảo hiểm xã hội còn rất thấp so với tiềm năng; độ bao phủ và mức trợ cấp xã hội chưa đáp ứng kỳ vọng; chất lượng và năng lực y tế cơ sở, y tế dự phòng chưa đáp ứng được yêu cầu chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân; chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm chậm; tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước sạch theo tiêu chuẩn quốc gia còn rất thấp; nhà ở cho người lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, các đô thị, lao động di cư, người có thu nhập thấp chưa được bảo đảm; hệ thống quản lý còn bất cập, chưa hiện đại.

Để vượt qua thách thức và khắc phục hạn chế, bất cập, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gợi mở yêu cầu cần tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý phát triển xã hội trên cơ sở quán triệt, cụ thể hóa quan điểm, định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội XIII của Đảng đề ra. Trong đó, con người là mục tiêu, động lực của phát triển và là trung tâm của chính sách xã hội; xác định rõ chính sách xã hội chăm lo cho người dân là nhiệm vụ chiến lược, là trách nhiệm thường xuyên của Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân và toàn xã hội.

Trong bối cảnh đất nước hội nhập, thời cơ và nguy cơ đan xen đặt ra thách thức lớn, hoặc là tụt hậu tức là bị bỏ rơi hoặc là đổi mới để vươn lên, khắc phục được “nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình”, bảo đảm phúc lợi xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội theo tiêu chí phát triển toàn diện, bền vững lấy con người làm trung tâm, cần có đột phá trong thực hiện chính sách xã hội.

Trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư nhận định: “Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân”(12). Để thực hiện tốt yêu cầu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, trong đó ưu tiên ba định hướng lớn trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội, đó là:

Thứ nhất, Nhà nước thống nhất quản lý việc thực hiện chính sách xã hội theo hướng chia sẻ giữa Nhà nước – xã hội – người dân và bảo đảm nguyên tắc an sinh – an dân và an cư  có thể linh hoạt điều chỉnh những thay đổi căn bản trong từng giai đoạn phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế, có khả năng ứng phó với tác động của kinh tế, chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai trên diện rộng. Tiếp tục đổi mới một số chính sách mang tính chất “nòng cốt” trong chính sách xã hội, như thực hiện sớm cải cách được chính sách tiền lương, phát huy được đúng giá trị “tiền lương thể hiện bằng giá cả và giá trị sức lao động trên thị trường”, tăng cường cơ hội “tiếp cận bình đẳng” thị trường lao động cho nhóm đối tượng đặc thù, “chính thức hóa” việc làm cho nhóm lao động phi chính thức; nâng cao chất lượng giáo dục, y tế thiết yếu. Bảo đảm mọi người dân đều được tiếp cận công bằng về các dịch vụ cơ bản và nhà ở tối thiểu, đều được hòa nhập vào cuộc sống cộng đồng trên mọi phương diện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

Thứ hai, tư duy thực hiện chính sách xã hội cần có sự đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ về thể chế, cơ chế quản lý, thực hiện thiết kế lại hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội. Tích hợp chính sách, chế độ hướng tới đáp ứng yêu cầu quản lý dịch vụ xã hội trong bối cảnh kinh tế số. Thực hiện chuyển đổi số một cách sâu rộng, toàn diện trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách xã hội. Tiếp tục có những thay đổi trong cơ chế cung cấp dịch vụ công hướng đến nguyên tắc chủ đạo: Nhà nước quản lý, điều hành và giám sát các bên cùng tham gia cung cấp dịch vụ công theo các tiêu chuẩn, tiêu chí giám sát, đánh giá rõ ràng và minh bạch. Xây dựng dịch vụ xã hội công theo hướng phân tầng từ cơ bản đến chất lượng cao phù hợp với nhu cầu của các nhóm xã hội có khả năng đồng chi trả và chi trả dịch vụ.

Thứ ba, chính sách xã hội phải bảo đảm tính chủ động, tích cực và xã hội hóa cao. Nhà nước bảo đảm đủ nguồn lực để thực hiện, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa huy động nguồn lực cho việc thực hiện chính sách xã hội. Nhà nước cần xây dựng chiến lược tài chính để thực hiện một hệ thống rộng hơn, phức tạp hơn về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Xây dựng lại cơ chế huy động mọi nguồn lực của xã hội, nâng cao trách nhiệm và năng lực tự an sinh của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng.

Và, tiếp tục thực hiện bảy nhiệm vụ quan trọng trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội, đó là:

Một là, thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng theo nguyên tắc bù đắp, cống hiến, đóng góp, hy sinh và công bằng; bảo đảm người có công và gia đình có mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn.

Hai là, tiếp tục thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tiếp cận với chuẩn nghèo đa chiều để hỗ trợ người dân nâng cao chất lượng cuộc sống, tích hợp chính sách giảm nghèo, giảm các chính sách hỗ trợ trực tiếp, tạo sinh kế bền vững cho người nghèo; thu hẹp khoảng cách về thu nhập, mức sống, điều kiện sống của người nghèo; tập trung giảm nghèo bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên cơ sở tiếp tục đổi mới căn bản giáo dục, đào tạo: giáo dục phổ thông chú trọng nâng cao dân trí, văn hóa đạo đức, hướng nghiệp từ xa; đào tạo đại học và giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực gắn với nhu cầu của thị trường lao động và phù hợp xu hướng phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tăng cường trách nhiệm của doanh nghiệp trong đào tạo nghề.

Bốn là, phát triển thị trường lao động cạnh tranh lành mạnh, đồng bộ, hiện đại và hội nhập; phát triển việc làm bền vững, nhất là cho thanh niên và lao động trung niên; xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ; thực hiện chính sách tiền lương gắn với năng suất lao động và khuyến khích, trọng dụng nhân tài.

Năm là, xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng, linh hoạt, hiện đại, chia sẻ và hội nhập; tăng hỗ trợ của Nhà nước để mở rộng độ bao phủ bảo hiểm xã hội tự nguyện, hướng tới bảo hiểm xã hội toàn dân. Mở rộng và duy trì bảo hiểm y tế toàn dân, nâng cao chất lượng y tế cơ sở và y tế dự phòng, đặt y tế cơ sở là nền tảng để chăm sóc sức khỏe người dân.

Sáu là, phát triển trợ giúp xã hội toàn diện, đa dạng, hiệu quả, phù hợp với vòng đời con người, có sự chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân; phát triển và đa dạng hóa các dịch vụ trợ giúp xã hội chuyên nghiệp, nghề công tác xã hội, bảo đảm nguyên tắc không để ai bị bỏ lại phía sau.

Bảy là, thực hiện hiệu quả các chương trình nhà ở xã hội, bảo đảm đủ nhà ở theo tiêu chuẩn tối thiểu cho người dân, đẩy mạnh xã hội hóa nhà ở cho người di cư, người dân vùng chịu tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu; bảo đảm nước sạch cho người dân nông thôn; nâng cao chất lượng thông tin truyền thông cho vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và hải đảo./.

ĐÀO NGỌC DUNG
Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội

———————–

(1) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 19
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 79
(3) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 51, tr. 47
(4) Văn kiện Đảng toàn tậpSđd, t. 55, tr. 398
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 101
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XISđd, tr. 80
(7), (8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 136, 136 – 138
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 134 – 135
(10), (11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, t. I, tr. 47, 147 – 148
(12) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 34 – 35

Theo TCCS