Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, trong đó có 01 dân tộc đa số và 53 dân tộc thiểu số (DTTS). Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc… Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”.
Bình đẳng giữa các dân tộc là nguyên tắc cơ bản, nhất quán trong xây dựng và thực thi chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Nhờ vậy, trong những năm qua đời sống của đồng bào các DTTS được nâng lên đáng kể, diện mạo vùng DTTS và miền núi ngày càng thay đổi theo hướng tích cực.
Tuy vậy, so với mặt bằng chung của cả nước, đời sống của đồng bào các DTTS vẫn còn nhiều khó khăn, kinh tế – xã hội vùng DTTS và miền núi phát triển còn chậm. Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch, phản động ra sức rêu rao rằng, đồng bào các DTTS đang chịu bất bình đẳng dân tộc so với đồng bào đa số, cụ thể là:
Thứ nhất, trên lĩnh vực kinh tế:
Lợi dụng sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế- xã hội giữa dân tộc Kinh và đồng bào DTTS và những bất cập trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở một số địa phương, các thế lực thù địch đã xuyên tạc rằng, Đảng, Nhà nước đối xử không công bằng, chỉ chăm lo cho người Kinh mà không chăm lo cho đồng bào DTTS, khiến cho cuộc sống của đồng bào khó khăn, nghèo đói (?!).
Khi Đảng, Nhà nước đầu tư các nguồn lực để xây dựng các công trình, dự án ở vùng đồng bào DTTS chúng lại rêu rao rằng, việc đầu tư đó chủ yếu tập trung ở các thị trấn, thị tứ, thành phố với mục đích là để phục vụ người Kinh và cán bộ, công chức trong chính quyền của người Kinh chứ không phải dành cho đồng bào DTTS (?!).
Chúng còn lợi dụng những hiện tượng cục bộ do lịch sử để lại để vu cáo Đảng, Nhà nước ta đã tạo điều kiện cho người Kinh cướp đất của đồng bào DTTS, do vậy, đồng bào mới thiếu đất ở, thiếu đất sản xuất và mới đói nghèo (?!).
Ở các vùng DTTS, cùng với những khó khăn về điều kiện địa lý, tự nhiên, môi trường là những hậu quả của chế độ phong kiến, thực dân để lại đã tạo ra sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế – xã hội giữa người Kinh và đồng bào DTTS. Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều cố gắng để rút ngắn khoảng cách chênh lệch này. Đảng ta khẳng định: “Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo sự chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hoá, xã hội ở vùng có đồng bào dân tộc thiểu số”[1]. Đặc biệt, Đảng, Nhà nước rất chú trọng phát huy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào DTTS trong phát triển kinh tế- xã hội. Nhờ vậy, đời sống của đồng bào DTTS, tình hình kinh tế – xã hội ở vùng DTTS ngày càng được cải thiện. Tính đến tháng 6/2021, 100% huyện vùng DTTS có đường đến trung tâm huyện; 98% xã có đường ô tô đến trung tâm xã, 100% xã và 97,2% thôn bản có điện lưới quốc gia; 93,9% hộ gia đình được sử dụng điện; 100 % xã có trường tiểu học và trung học cơ sở; 99,7 % xã có trường mần non; 99,3%; 99,3% xã có trạm y tế; 65,8% xã và 76,7% thôn có nhà văn hóa/nhà sinh hoạt cộng đồng[2]. Tuy vậy, để đời sống của đồng bào DTTS và kinh tế – xã hội ở vùng DTTS phát triển ngang bằng với các vùng khác đòi hỏi phải có thời gian, không thể nôn nóng được.
Thứ hai, trên lĩnh vực chính trị
Các thế lực thù địch, phản động liên tục rêu rao rằng, đồng bào DTTS không được tham gia bình đẳng vào đời sống chính trị của đất nước như người Kinh, đồng bào DTTS không có quyền hành gì đối với đất nước (?!). Lợi dụng nhận thức chưa đầy đủ của một bộ phận đồng bào DTTS, chúng còn tuyên truyền, Đảng, Nhà nước Việt Nam khẳng định lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng tư tưởng nhưng thực chất đang làm trái với quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về quyền dân tộc tự quyết! Từ đó chúng đã kích động đồng bào các DTTS (Mông, Chăm, Ê đê, Ba na, Khơme) đòi tách ra thành lập nhà nước riêng để bảo đảm quyền lợi của mình.
Sau khi Liên hợp quốc thông qua “Tuyên ngôn về quyền của người bản địa” (2007), trong đó từ Điều 1 đến Điều 5 của Tuyên ngôn này nói rằng: Các dân tộc bản địa có quyền tự quyết. Trên tinh thần đó họ có quyền tự do quyết định tình trạng chính trị và tự do mưu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Các thế lực thù địch, phản động đã cố tình đánh tráo khái niệm, gọi một số dân tộc thiểu số tại chỗ như: đồng bào Chăm ở duyên hải miền Trung, đồng bào Khơme ở Tây Nam Bộ, đồng bào Ê đê, Ba na ở Tây Nguyên là các dân tộc bản địa và từ đó rêu rao rằng, các dân tộc bản địa này bị các nông, lâm trường của người Kinh và người Kinh cướp đất, vì vậy phải tách ra thành lập nhà nước riêng để đòi lại những gì “thuộc về” mình (?!).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng diễn ra từ ngày 25/1 – 2/2/2021 tại Thủ đô Hà Nội có 1.587 đại biểu chính thức tham dự, trong đó có có 222 đại biểu là nữ, chiếm tỷ lệ 13,99%. Ảnh: TTXVN
Trên thực tế, Đảng, Nhà nước ta luôn tạo cơ hội, điều kiện để đồng bào DTTS tham gia xây dựng hệ thống chính trị, quản lý đất nước. Đặc biệt, Đảng, Nhà nước rất chú trọng đến chính sách phát triển đội ngũ cán bộ DTTS. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ DTTS tham gia vào các cơ quan Đảng, Nhà nước ngày càng tăng về số lượng và nâng cao về chất lượng. Kết quả bầu cử tại 67 đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2020-2025 có 11,68% cấp ủy viên người DTTS (cao hơn nhiệm kỳ trước 0,72%). Tại Đại hội XIII của Đảng có 13 Ủy viên Trung ương Đảng là người DTTS. Tại Quốc hội khóa XV có 89 đại biểu người DTTS, chiếm 17, 84% số đại biểu (là tỷ lệ cao nhất từ trước đến nay).
Chủ nghĩa Mác- Lênin về quyền dân tộc là nói đến quyền của các dân tộc quốc gia (nation) trong hoàn cảnh chủ nghĩa chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc đi xâm chiếm thuộc địa, các dân tộc thuộc địa (nation) có quyền tự quyết/tách ra để thành lập quốc gia độc lập. Việc các thế lực thù địch đánh tráo khái niệm dân tộc quốc gia (nation) với khái niệm dân tộc tộc người (ethnic) để rêu rao Đảng, Nhà nước ta làm trái với quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin là sự xuyên tạc trắng trợn.
Khái niệm “người bản địa” có nguốn gốc lịch sử gắn liền với thời kỳ chủ nghĩa đế quốc đi xâm chiếm, áp đặt sự thống trị ở các nước thuộc địa. Ở các nước này có 2 tầng lớp người: một là những “quan cai trị” và những người di cư đến làm ăn có quan hệ mật thiết với bộ máy cai trị và một là cộng đồng những người dân thuộc địa, bị thống trị được gọi là “người bản địa” hoặc “người bản xứ”. Ở Việt Nam, khi chế độ thực dân xâm lược bị đánh đổ thì khái niệm “người bản địa” cũng không còn cơ sở tồn tại. Đây là một sự thật lịch sử không thể bác bỏ.
Việc các thế lực thù địch kích động lợi dụng sự hiểu biết chưa đầy đủ của một bộ phận đồng bào DTTS để kích động tư tưởng ly khai, tự trị, để đồng bào đòi tách ra thành lập quốc gia riêng là hành động gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta.
Thứ ba, trên lĩnh vực văn hóa – xã hội
Trước những thay đổi về văn hóa- xã hội ở các vùng DTTS theo hướng hiện đại, tiến bộ, các thế lực thù địch, phản động vu khống Đảng, Nhà nước Việt Nam không tôn trọng bản sắc, văn hóa truyền thống của đồng bào DTTS, cố tình “đồng hóa về văn hóa” ở vùng đồng bào DTTS theo văn hóa người Kinh để “Kinh hóa đồng bào DTTS” (?!).
Trước những khó khăn về y tế, giáo dục ở vùng đồng bào DTTS, chúng rêu rao rằng, chính quyền của người Kinh ngược đãi đồng bào DTTS, không chú ý đến việc chăm sóc sức khỏe, nâng cao dân trí ở vùng DTTS để “dễ bề cai trị” (?!).
Bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số là chủ trương xuyên suốt của Đảng, Nhà nước. Ảnh: Internet
Đảng, Nhà nước Việt Nam đã dành nhiều sự quan tâm để giữ gìn, phát triển văn hóa truyền thống của các DTTS, gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Đến nay, đã có 03 di tích quốc gia, 08 di tích lịch sử – văn hoá, danh lam, thắng cảnh liên quan đến đồng bào DTTS được xếp hạng di tích quốc gia; có 126 di sản văn hóa phi vật thể, 276 nghệ nhân ưu tú là người DTTS. Đã chính thức tổ chức dạy và học 06 thứ tiếng DTTS: Mông, Khmer, Chăm, Gia Rai, Ba Na, Ê Đê. Việc tổ chức dạy và học tiếng DTTS được triển khai ở 23 tỉnh, thành phố. Có 95% xã được phủ sóng phát thanh, truyền hình (có nhiều chương trình/kênh phát bằng tiếng DTTS)[3];100% xã có điện thoại cố định và di động; 81,5% số xã có hệ thống loa truyền thanh đến thôn.
Để tạo cơ hội, điều kiện cho con em đồng bào DTTS học tập, Đảng, Nhà nước đã triển khai các chính sách: cử tuyển, đào tạo có địa chỉ…, đầu tư xây dựng 3.126 trường phổ thông dân tộc nội trú tại 49 tỉnh, thành phố, 4 trường dự bị đại học, 1 trường phổ thông dân tộc nội trú có chương trình dự bị đại học và 3 khoa dự bị đại học cho con em đồng bào DTTS tại các trường đại học[4].
Những kết quả đáng ghi nhận này chứng minh tính đúng đắn, hiệu quả của các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong việc phát triển văn hóa- xã hội ở vùng DTTS, chứ không phải như luận điệu vu khống trắng trợn của các thế lực thù địch.
Những luận điệu hết sức thâm độc kể trên của các thế lực thù địch, phản động đã làm xói mòn niềm tin của một bộ phận đồng bào DTTS với Đảng, Nhà nước; phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc; tạo ra nhiều nguy cơ phức tạp về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, đe doạ đến an ninh quốc gia. Vì vậy chúng ta cần vạch rõ thực chất những luận điệu vu khống, xuyên tạc của chúng.
[1]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG ST, HN. 2021, tập 1, tr.170.
[2][4]Ủy ban Dân tộc, Báo cáo 732/BC- UBDT ngày 10/6/221 về tổng kết chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020.
[3]Chính phủ: Báo cáo đánh giá kết quả 3 năm thực hiện chính sách hỗ trợ phát riển kinh tế- xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi, H.2018.
Thái Hoàng