“Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” là sự kế thừa và phát triển truyền thống nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh lịch sử – đỉnh cao chiến thắng của văn hóa quân sự Việt Nam hiện đại.
Cách đây tròn nửa thế kỷ, việc Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc “đụng đầu” trực diện với “siêu pháo đài bay” B-52 được mệnh danh là “bất khả xâm phạm” của đế quốc Mỹ đã làm thế giới kinh ngạc.
Hàng nghìn bài báo, hàng trăm cuốn sách đã được viết để lý giải câu hỏi: Vì sao một đất nước với tiềm lực kinh tế và quân sự kém xa Mỹ lại có thể bắn rơi hàng loạt máy bay B-52 – niềm tự hào của nền công nghiệp Mỹ và biểu trưng cho sức mạnh răn đe của Mỹ?
Trận quyết chiến chiến lược “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” thêm một lần nữa chứng minh chân lý giản dị: “Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc,” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói.
“Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” là sự kế thừa và phát triển truyền thống nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh lịch sử; xứng đáng là một đỉnh cao chiến thắng của văn hóa quân sự Việt Nam hiện đại.
Chuẩn bị mọi mặt cho cuộc đọ sức cuối cùng
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 và các chiến dịch năm 1971-1972 của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam đã làm cho chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ đứng trước nguy cơ bị phá sản hoàn toàn.
Để cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ đã phát động cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ra miền Bắc, trong đó có chiến dịch tập kích chiến lược đường không “Linebacker II” (18-29/12/1972) hòng thực hiện dã tâm đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá, uy hiếp, khuất phục ý chí độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta; đồng thời, dùng sức mạnh quân sự để leo thang tấn công miền Bắc, áp đặt thế mạnh lên Hội nghị Paris.
Để chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược trên bầu trời Hà Nội, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã được Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo từ rất sớm.
Năm 1962, khi máy bay B-52 còn chưa tham chiến ở Việt Nam, với nhãn quan chính trị nhạy bén và tầm nhìn chiến lược, trên cơ sở nghiên cứu tìm hiểu âm mưu, thủ đoạn, quy luật sử dụng lực lượng không quân Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo đế quốc Mỹ sẽ sử dụng loại máy bay này ở Việt Nam và căn dặn: “… phải theo dõi chặt chẽ và thường xuyên quan tâm đến loại máy bay B-52 này.”
Đúng như dự báo của Người, ngày 18/6/1965, lần đầu tiên đế quốc Mỹ sử dụng B-52 ném bom khu vực Bến Cát (tây bắc Sài Gòn). Người đã khẳng định ý chí sắt đá của Đảng và cả dân tộc: “Dù đế quốc Mỹ có lắm súng nhiều tiền, dù chúng có B-57, B-52 hay ‘bê’ gì đi nữa ta cũng đánh, từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh mà đánh là nhất định thắng.”
Để chuẩn bị đánh B-52, trước tiên là phải tìm hiểu tính năng, kỹ thuật, đặc điểm và quy luật hoạt động của nó, trên cơ sở đó, tìm ra cách đánh phù hợp.
Nhằm thực hiện đầy đủ mục đích trên, đồng thời, chấp hành chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu, tháng 5/1966, Quân chủng Phòng không-Không quân đã tổ chức cho Trung đoàn tên lửa 238 cơ động vào Vĩnh Linh, nghiên cứu cách đánh B-52.
Ngày 17/9/1967, tại trận địa T5, Nông trường Quyết Thắng (Vĩnh Linh), Tiểu đoàn 84, Trung đoàn 238 đã bắn rơi chiếc máy bay B-52 đầu tiên. Từ đó, chúng ta luôn luôn duy trì một lực lượng ở chiến trường để đánh B-52, với phương châm là vừa đánh địch, vừa nghiên cứu địch.
Cuối năm 1967, khi làm việc với Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước mọi tình huống, càng sớm càng tốt, để có thời gian mà suy nghĩ, chuẩn bị. Mỹ sẽ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua trên bầu trời Hà Nội.”
Thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên, đặc biệt là sự nhắc nhở thường xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đầu năm 1968, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân bắt tay vào xây dựng kế hoạch đánh trả một cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B-52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội trong vòng 5 năm tới.
Có thể nói, đây là một bản kế hoạch rất độc đáo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam. Bởi lẽ, lúc bấy giờ, ngay cả phía Mỹ cũng chưa có chút manh nha gì về kế hoạch tiến công ồ ạt miền Bắc bằng máy bay B-52.
Lúc đầu, tuy còn sơ lược, nhưng qua chiến đấu thực tiễn và từng bước rút kinh nghiệm, bản kế hoạch được hoàn chỉnh dần. Đáng chú ý nhất là cuốn sách cẩm nang bìa đỏ mang tên “Cách đánh B-52” của bộ đội tên lửa.
Tuy chỉ có 30 trang đánh máy, nhưng đó là sự tổng hợp, đúc kết kinh nghiệm trong quá trình gần 7 năm chiến đấu với B-52 và các thủ đoạn của không quân Mỹ, nhất là những kinh nghiệm và phương pháp mới nhất, được rút ra sau trận tập kích ngày 16/4/1972 bằng B-52 của địch vào Hà Nội và Hải Phòng.
Trên cơ sở tài liệu này, ngày 31/10/1972, Quân chủng Phòng không-Không quân tổ chức Hội nghị cán bộ để thảo luận, phổ biến cách đánh B-52. Việc sử dụng hợp lý các loại vũ khí hiện có và hợp đồng tác chiến chặt chẽ giữa bộ đội radar, tên lửa phòng không, pháo phòng không, không quân tiêm kích, lực lượng phòng không của bộ đội địa phương và dân quân tự vệ đã tạo ra lưới lửa phòng không dày đặc nên máy bay Mỹ dù bay ở độ cao nào, từ hướng nào, ở khung thời gian nào cũng có thể bị tiêu diệt.
Ngoài ra, cán bộ, nhân dân trên toàn miền Bắc cũng được tổ chức, huy động tối đa để phục vụ chiến đấu. Đây thực sự là nét độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam, thể hiện sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân.
Với sự cố gắng, nỗ lực trong nhiều năm, đến ngày 3/12/1972, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân đã báo cáo lên cấp trên mọi mặt công tác chuẩn bị đánh B-52 đã xong; đồng thời, ra quyết tâm chiến đấu trong toàn lực lượng, không để Hà Nội, Hải Phòng bị bất ngờ, quyết bắn rơi tại chỗ B-52, đánh bại cuộc tập kích bằng B-52, nếu Mỹ liều lĩnh đánh vào Hà Nội, Hải Phòng…
Hạ gục pháo đài bay
10 giờ 30 phút ngày 17/12/1972, ngay khi Tổng thống Níchxơn ra lệnh mở cuộc tiến công bằng không quân vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã trên miền Bắc, quân và dân toàn miền Bắc đã vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu, quyết tâm đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược của đế quốc Mỹ.
19 giờ 25 phút đến 20 giờ 8 phút, B-52 bắt đầu oanh kích sân bay Nội Bài, sân bay Hòa Lạc, các nhà ga Yên Viên, Đông Anh, Cổ Loa.
19 giờ 44 phút, quả tên lửa đầu tiên của Tiểu đoàn 78, Trung đoàn Tên lửa 257 được phóng lên, cuộc chiến đấu 12 ngày đêm của lực lượng phòng không 3 thứ quân bảo vệ Hà Nội bắt đầu.
20 giờ 13 phút, Tiểu đoàn tên lửa 59 (Đoàn Thành Loa) bắn trúng chiếc B-52 đầu tiên của chiến dịch. Đây là chiếc B-52 đầu tiên bị bắn rơi tại chỗ trên bầu trời Hà Nội, cách trận địa chưa đầy 10km.
Thắng lợi hạ gục tại chỗ “Siêu pháo đài bay-B52” ngay trong đêm đầu tiên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về tư tưởng và tác chiến, giải tỏa những lo lắng, băn khoăn của Bộ Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu và tất cả cán bộ, chiến sỹ trực tiếp chiến đấu bảo vệ Hà Nội.
Suốt đêm 18 đến rạng ngày 19/12, đế quốc Mỹ huy động 90 lần chiếc B-52 ném 3 đợt bom xuống thủ đô Hà Nội. Xen kẽ các đợt đánh phá của B-52 có 8 lần chiếc F.111 và 127 lần máy bay cường kích, bắn phá các khu vực nội ngoại, thành.
Trong đêm đầu tiên Mỹ đã ném khoảng 6.600 quả bom xuống 135 địa điểm thuộc thủ đô Hà Nội, 85 khu vực dân cư bị trúng bom, làm chết 300 người. Quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu, bắn rơi 6 máy bay các loại, trong đó có 2 máy bay B-52 rơi tại chỗ.
Phát huy chiến thắng trận đầu của chiến dịch, bộ đội phòng không-không quân đã liên tiếp lập công trong các trận đánh tiếp theo, đặc biệt là trong trận then chốt quyết định chiến dịch ngày 26/12/1972, bắn rơi 8 máy bay B-52.
Bị tổn thất nặng nề, đến sáng ngày 30/12/1972, Richard Nixon buộc phải tuyên bố chấm dứt cuộc tập kích đường không chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng, chấp nhận nối lại đàm phán với ta tại Hội nghị Paris.
Kết quả toàn chiến dịch, ta bắn rơi 81 máy bay các loại (trong đó có 34 B-52 và 5 F-111), diệt và bắt sống nhiều phi công Mỹ. Riêng ở Thủ đô Hà Nội, ta bắn rơi 30 máy bay (trong đó có 23 B-52 và 2 F-111).
Thắng lợi của “Điện Biên Phủ trên không” là sự dồn tụ và tỏa sáng của tư tưởng chiến lược tiến công, tính tích cực chủ động, mưu trí, sáng tạo của quân và dân ta.
Qua chiến dịch này, với ý chí bất khuất không biết sợ giặc, quyết tâm đánh giặc không gì có thể chuyển lay, Việt Nam giáng một đòn quyết định, thổi tan cái gọi là “huyền thoại bất khả chiến bại” của không lực, nòng cốt là lực lượng không quân chiến lược Hoa Kỳ.
Lần đầu, trong lịch sử 30 năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc (1945-1975), Việt Nam can trường tiến hành một chiến dịch phòng không quy mô lớn nhất chống lại một cuộc tập kích chiến lược bằng B-52 điên cuồng nhất, dã man nhất của đế quốc Mỹ – cuộc tập kích quy mô chưa từng có trong lịch sử chiến tranh hiện đại trên thế giới.
Ngày 30/12/1972 các báo đăng toàn văn thông cáo Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam được phát đi, trong đó có câu “Không có sức mạnh tàn bạo nào có thể khuất phục nổi dân tộc Việt Nam anh hùng.”
Trước đó, cụm từ đầy ý nghĩa “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” và “Hà Nội, lương tri và phẩm giá con người” lần đầu tiên được đăng trên Báo Nhân dân và ngay lập tức được các hãng thông tấn, báo chí phương Tây và Mỹ sử dụng để ca ngợi chiến thắng vĩ đại của Việt Nam.
Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không 1972” đóng vai trò quyết định trực tiếp buộc chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định Paris (ngày 27/1/1973) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút hết quân viễn chinh, quân đồng minh về nước, mở ra bước ngoặt mới cho toàn bộ sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc; đồng thời làm nức lòng bè bạn và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, đẩy lùi “tâm lý sợ hãi” về cái gọi là “sức mạnh khủng khiếp của không quân chiến lược Mỹ.”
Có thể nói, Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” là thắng lợi của đường lối chiến tranh nhân dân, của thế trận phòng không nhân dân; là chiến thắng của nghệ thuật quân sự sáng tạo của Đảng và Quân đội ta.
Ðể làm nên Chiến thắng “Hà Nội-Ðiện Biên Phủ trên không, lực lượng phòng không ba thứ quân đã vận dụng sáng tạo, kết hợp linh hoạt các biện pháp tác chiến để chống địch trinh sát, chế áp điện tử và giữ bí mật, giành chủ động, bất ngờ tiêu diệt địch, bảo vệ mục tiêu, hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Cụ thể, để giữ bí mật trước các phương tiện trinh sát của địch, quân và dân Thủ đô đã thường xuyên làm tốt ngụy trang giữ bí mật sở chỉ huy các cấp, trận địa phòng không, sân bay vòng ngoài.
Riêng tên lửa phòng không ban ngày tập trung ngụy trang giữ bí mật để đánh ban đêm. Các sân bay vòng ngoài mặc dù bị địch đánh phá nhưng ta đã kịp thời khắc phục, ngụy trang khéo léo, bí mật cơ động máy bay từ nơi cất giấu đến sân bay, bảo đảm cho không quân ta xuất kích, tạo yếu tố bất ngờ đánh B-52 của địch.
Đặc biệt, trong chiến dịch, lực lượng tên lửa phòng không đã thực hiện nghi binh rất độc đáo, hiệu quả, bằng cách “phóng tên lửa giả,” buộc địch phải cơ động phá vỡ đội hình chiến đấu, giảm hiệu quả của nhiễu, ta xác định được chính xác B-52 thật để đánh địch, nâng cao hiệu quả chiến đấu.
Có thể thấy, nghệ thuật nghi binh, lừa địch của quân và dân Thủ đô Hà Nội đã phát triển đến đỉnh cao.
Bên cạnh đó, các lực lượng đã kết hợp chặt chẽ các biện pháp chiến thuật và kỹ thuật để hạn chế hiệu quả tác chiến điện tử, vũ khí công nghệ cao của địch.
Bộ đội tên lửa, radar phát huy tối đa khả năng chiến đấu, vận dụng sáng tạo các biện pháp kỹ thuật, thao tác chiến đấu để phát hiện máy bay B-52 từ xa, cải tiến quy trình thông báo tọa độ mục tiêu, bảo đảm kịp thời chính xác cho các lực lượng đánh địch.
Trong từng trận đánh, lực lượng phòng không ba thứ quân đã hiệp đồng chặt chẽ, thực hiện các trận đánh tập trung, liên tục trên đường bay, kết hợp linh hoạt đánh địch từ nhiều hướng cả khi bay vào và bay ra, sử dụng linh hoạt các phương pháp đánh đón, đánh đuổi, đánh từ bên sườn để đối phó với nhiễu của địch, nâng cao hiệu quả tiêu diệt địch.
Chiến thắng cuộc tập kích đường không chiến lược, với gần 50% lực lượng không quân chiến lược của toàn nước Mỹ và toàn bộ máy bay chiến thuật của không quân, hải quân Mỹ ở Ðông Nam Á, đánh dấu sự phát triển vượt bậc về nghệ thuật tiến hành chiến dịch phòng không của quân đội ta trong chiến tranh giải phóng, để lại nhiều bài học kinh nghiệm thực tiễn vô cùng quý báu cho các lực lượng của Quân chủng Phòng không-Không quân.
Sinh thời, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh: “một trong những yếu tố quyết định để chiến thắng là phải có cách đánh tốt và được huấn luyện chu đáo.”
Còn trong cuốn sách “Cuộc chiến tranh không quân ở Đông Dương” xuất bản ở Mỹ có lời đánh giá nổi tiếng của Giáo sư Neil Seehan: “Thắng lợi của người Việt Nam là một thí dụ vô song về sự toàn thắng của trí tuệ con người đối với máy móc.”
Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho kho tàng nghệ thuật quân sự Việt Nam, đặc biệt nghệ thuật chiến dịch phòng không như: phán đoán chính xác âm mưu, thủ đoạn tập kích của không quân địch, sớm có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, mở màn chiến dịch chủ động; quán triệt yêu cầu chiến lược, nêu cao quyết tâm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ; xác định đúng đối tượng tác chiến, chỉ đạo chiến thuật linh hoạt, sáng tạo; sử dụng lực lượng phù hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp các binh chủng, từng binh chủng; chỉ huy tập trung, thống nhất, bảo đảm tác chiến hiệp đồng chặt chẽ.
Những bài học kinh nghiệm quý báu này rất cần được chắt lọc, vận dụng phù hợp, sáng tạo trong công tác huấn luyện, góp phần xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.
theo Vietnam+/TTXVN