Vận dụng phương pháp phát huy sức mạnh quần chúng trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng vào công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay

TCCS – Sức mạnh của quần chúng là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của mọi cuộc cách mạng. Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về vai trò của nhân dân trong lịch sử và tư tưởng “nước lấy dân làm gốc”(1) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo phương pháp phát huy sức mạnh quần chúng vào công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an dự Ngày hội Văn hoá, thể thao và du lịch các dân tộc vùng Tây Nguyên lần thứ I, năm 2023, ngày 29-11-2023 _Nguồn: baokontum.com.vn

Phương pháp pháp huy sức mạnh quần chúng trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng

Cách mạng muốn thắng lợi, trước hết phải xác định đường lối và phương pháp đúng đắn và phù hợp. Trong đó, phương pháp cách mạng là cách thức để tổ chức thực hiện đường lối đạt hiệu quả, giải quyết được những yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra trong từng thời kỳ; đồng thời, huy động cao nhất lực lượng cách mạng tự giác, tích cực tham gia đấu tranh giải phóng dân tộc với quyết tâm giành thắng lợi cao nhất. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, vì vậy, phương pháp cách mạng phải bao gồm việc tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ, tập hợp và xây dựng lực lượng quần chúng thành “bức tường đồng” bất khả xâm phạm. Chỉ khi quy tụ, tập hợp toàn dân sẽ tạo thành sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đưa đất nước vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, trường tồn trước những biến thiên của lịch sử, để “non sông nghìn thuở vững âu vàng”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân là lực lượng đông đảo trong xã hội, nhưng nếu mỗi người đứng riêng rẽ thì sẽ không thể tạo thành sức mạnh, chỉ khi được giác ngộ, quy tụ trong một khối thống nhất mới tạo thành sức mạnh “muôn người như một”. Tuy nhiên, việc quy tụ, tập hợp và phát huy sức mạnh quần chúng nhân dân đòi hỏi phải có phương pháp, hình thức phù hợp, trong đó, Đảng phải là hạt nhân. Trên cơ sở kế thừa và tiếp nối truyền thống của cha ông về tinh thần “thân dân, trọng dân, yêu dân” và sức mạnh “chở thuyền”, “lật thuyền” của nhân dân; quán triệt sâu sắc tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi nhân dân là “mạch nguồn” tạo nên sức mạnh nội sinh, quyết định sự hưng thịnh, suy vong của quốc gia – dân tộc; là “thành lũy” kiên cố vững chắc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ngay từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược cơ bản của cách mạng Việt Nam là đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp bằng con đường “bạo lực cách mạng”. Đồng thời, nhấn mạnh, bạo lực cách mạng nhất thiết phải có sự tham gia đông đảo của quần chúng. Bởi, “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào”(2), chỉ khi quần chúng được giác ngộ, quy tụ thành một khối thống nhất mới trở thành lực lượng hùng hậu chống lại bạo lực phản cách mạng. Rút kinh nghiệm từ thực tiễn các phong trào yêu nước trước khi Đảng ra đời (phong trào Cần Vương, phong trào của Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu…) đều thất bại do chưa có đường lối đấu tranh đúng đắn và phương pháp cách mạng phù hợp; trải qua ba cao trào cách mạng từ 1930 – 1945, Đảng đã chứng minh đường lối, phương pháp bạo lực dựa trên sức mạnh quần chúng là đúng đắn. Lòng dân, sức dân dưới sự lãnh đạo của Đảng được quy tụ, chuyển hóa thành sức mạnh vô địch làm nên kỳ tích lịch sử, mà đỉnh cao là cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Những bài học lớn về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn còn nguyên giá trị để Đảng ta vận dụng sáng tạo, linh hoạt trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch hiện nay.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhưng ngay sau đó, vận mệnh của đất nước rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” khi giặc đói, giặc dốt, đặc biệt là giặc ngoại xâm đang đe dọa nghiêm trọng nền độc lập, tự do của dân tộc. Với dã tâm “cướp nước ta một lần nữa”, thực dân Pháp đã đặt dân tộc Việt Nam trước thử thách mới: Hoặc chiến đấu để giữ vững nền độc lập, hoặc trở lại kiếp nô lệ một lần nữa. Trước tình thế hiểm nghèo của đất nước, ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, hiệu triệu cả dân tộc nhất tề đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Đây là quyết định đúng đắn và kịp thời, thể hiện sự chủ động và bản lĩnh của Đảng ta với niềm tin sắt đá vào sức mạnh của quần chúng nhân dân, cùng với quyết tâm “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(3), Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm hoạch định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính; đồng thời, sáng tạo trong việc khơi dậy, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, chủ động khai thác và động viên được sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, viết nên thiên sử vàng cho lịch sử dân tộc.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã phát huy và đưa sức mạnh toàn dân lên tầm cao mới. Trong hoàn cảnh “nước sôi lửa bỏng”, vừa phải đương đầu với đế quốc Mỹ – một kẻ thù hùng mạnh nhất thế giới ở miền Nam, vừa phải giải quyết nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa ở xã hội ở miền Bắc, với trí tuệ, bản lĩnh sáng suốt, Đảng đã huy động tổng lực sức người, sức của trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa… để chi viện cho tiền tuyến, tạo sức mạnh tổng hợp đánh bại đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Như vậy, trước sự tồn vong của dân tộc, với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, dựa vào nhân dân, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, sáng suốt chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua thác ghềnh hiểm nguy, từng bước tiến lên.

Thực tiễn sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước đã minh chứng nhờ có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, Đảng đã tập hợp, quy tụ, phát huy được sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân, làm cơ sở cho việc hình thành và phát triển một “đạo quân chính trị” hùng hậu cho cách mạng; khơi dậy và nhân lên sức mạnh của lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, quyết tâm giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đây là nét độc đáo trong phương pháp cách mạng của Đảng ở thời kỳ này.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Song, do lạc hậu về nhận thức lý luận, cùng với những sai lầm “tả khuynh”, “hữu khuynh” trong tổ chức thực hiện nên đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng; cùng với sự bao vây, cấm vận, chống phá của các thế lực thù địch. Trước hoàn cảnh đó, Đảng tiếp tục vận dụng sáng tạo, linh hoạt phương pháp phát huy sức mạnh quần chúng để xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, nắm vững thời cơ, vượt qua thách thức, đưa công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên giành nhiều thắng lợi mới. Với bản lĩnh kiên cường, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thành công trong việc quy tụ, đoàn kết quần chúng nhân dân tạo thành sức mạnh vô địch đưa đất nước vượt qua mọi sóng to, gió lớn của thời cuộc, đạt nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật, đất nước phát triển nhanh và bền vững(4).