Lý thuyết xã hội dân sự của phương Tây
Thuật ngữ “Xã hội dân sự” hay “Xã hội công dân” (civil society) xuất hiện từ thế kỷ XVI gắn liền với những tiền đề ra đời của chủ nghĩa tư bản. Vào thế kỷ XVII, XVIII, giai cấp tư sản châu Âu giương cao khẩu hiệu tự do, dân chủ, nhân quyền để tập hợp lực lượng, trong đó có sử dụng các tổ chức xã hội dân sự, tiến hành cuộc cách mạng lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế, giải phóng cá nhân, khẳng định quyền con người với tư cách là công dân. Các cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu đã cho ra đời xã hội công dân, nhà nước pháp quyền tư sản thay thế cho xã hội thần dân và nhà nước thần quyền phong kiến. Thế nhưng, sau khi nắm chính quyền, giai cấp tư sản nhanh chóng phản bội lại chính các lý tưởng về tự do, dân chủ, bình đẳng, bác ái để thiết lập nên các chế độ chuyên chế, thực hiện chính sách nô dịch, bóc lột trong nước và chính sách xâm lược, áp bức dân tộc đối với các quốc gia khác. Ngay từ sớm, từ trong lòng xã hội tư bản, nơi ra đời và là môi sinh của xã hội dân sự, thì khái niệm này đã ít nhiều bị giai cấp tư sản cầm quyền làm biến dạng so với nguyên nghĩa ban đầu của nó, không còn là một bộ phận vì sự tiến bộ của xã hội với đầy đủ ý nghĩa, mà nhiều dạng thức xã hội dân sự bị lợi dụng thành công cụ chính trị đắc lực để điều hòa các mâu thuẫn xã hội trong xã hội tư bản. Đáng chú ý là, sự ra đời của học thuyết Mác đã vấp phải sự chống trả quyết liệt, với sự xuất hiện của nhiều trào lưu tư tưởng phi mác-xít về xã hội dân sự, như các học thuyết tân cánh tả, tân tự do, chủ nghĩa cải lương, cơ hội, xét lại, siêu hình…, hình thành lý thuyết (học thuyết) về xã hội dân sự (civil society theory) tư sản, trong đó sự chống phá tập trung vào:
Một là, tuyệt đối hóa sự độc lập của xã hội dân sự với nhà nước.
Mục đích của sự tách biệt này là muốn chặt đứt mọi mối liên hệ giữa xã hội dân sự với xã hội chính trị, để biện hộ cho lý thuyết về một xã hội dân sự không chỉ nằm ngoài xã hội chính trị, mà còn độc lập hoàn toàn, không chịu bất kỳ sự ràng buộc hay mối liên hệ nào với các đảng phái, nhà nước; hơn thế, nó còn là lực lượng đối trọng, đối lập với nhà nước. Luận điệu này đã cố tình phủ định mối quan hệ biện chứng và phong phú giữa nhà nước và xã hội dân sự, cũng là cách khiến nhiều người lầm tưởng vào một mô hình xã hội dân sự hiện thân của tự do, dân chủ tuyệt đối, cũng là giá trị về tự do của xã hội tư bản. Lý thuyết này tự vạch ra ranh giới giữa nhà nước với xã hội dân sự, giữa “công” và “tư”, giữa “chính trị” và “phi chính trị”, trong đó xã hội dân sự được đề cao tuyệt đối hóa, một xã hội đa nguyên về tổ chức, đa nguyên về ý thức hệ và nhà nước hiện nay phải giảm bớt can thiệp vào đời sống xã hội, xã hội phải tự túc, tự quản. Nó cổ xúy cho thứ “xã hội dân sự” chống nhà nước, đối trọng với chính quyền, hòng làm xói mòn quyền lực nhà nước, có thể đẩy xã hội đến tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ.
Sự thật là, trong các hình thái kinh tế – xã hội còn sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp, thì tất yếu các định chế xã hội, trong đó có xã hội dân sự, luôn mang bản chất giai cấp và giữ mối liên hệ với nhà nước. Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê-ghen”, C. Mác phê phán Hê-ghen về tư tưởng siêu hình khi cho rằng mối quan hệ giữa xã hội công dân và nhà nước là “…được sản sinh ra từ ý niệm hiện thực”(1), chỉ “là vẻ bề ngoài thuần túy”(2); cũng như quan niệm về sự độc lập, tách rời và xung đột của xã hội công dân đối với nhà nước. “Hê-ghen xuất phát từ tiền đề là sự tách rời của xã hội công dân với nhà nước chính trị (trong trạng thái hiện đại)… Ông đem tính phổ biến tồn tại tự nó và cho nó của nhà nước, đối lập với những lợi ích đặc thù và những nhu cầu đặc thù của xã hội công dân. Tóm lại, bất cứ ở đâu ông cũng mô tả sự xung đột giữa xã hội công dân và nhà nước”(3).
Theo C. Mác, xã hội công dân và nhà nước có mối quan hệ biện chứng với nhau, xã hội công dân là cơ sở nền tảng và quyết định nhà nước, trong khi nhà nước là đại diện cho lợi ích của xã hội công dân. C. Mác khẳng định, xã hội công dân là tiền đề của nhà nước: “Trên thực tế, gia đình và xã hội công dân là những tiền đề của nhà nước…”(4); hơn thế, “gia đình và xã hội công dân tự chúng cấu thành nhà nước”(5). Sự mâu thuẫn giữa xã hội công dân và nhà nước nếu có, thì đó là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong mối quan hệ biện chứng chặt chẽ.

C. Mác và Ph. Ăng-ghen _Tranh: Tư liệu
Bên cạnh đó, C. Mác cũng thừa nhận tính độc lập tương đối giữa nhà nước và xã hội công dân, đó là tính độc lập giữa một bên là lĩnh vực chính trị và bên kia là quan hệ kinh tế. Mặt khác, xã hội công dân có nền tảng là các hoạt động xã hội; các can dự đều nhằm phục vụ cho các hoạt động xã hội, không thuần túy hoạt động chính trị hoặc không hoạt động chính trị nhằm mục đích giành chính quyền. “Không có mục đích giành chính quyền” là đặc trưng cơ bản để phân biệt giữa tổ chức xã hội công dân với các đảng chính trị. Khi các tổ chức xã hội công dân trong quá trình hoạt động có mục đích cạnh tranh với quyền lực của nhà nước thì đồng nghĩa nó đã chuyển hóa thành các đảng chính trị và thuộc khu vực xã hội chính trị, tức không còn được coi là tổ chức xã hội công dân. Khi xã hội công dân thuần túy tham gia chính trị, thì theo C. Mác, xã hội công dân sẽ “tự xóa bỏ bản thân”: “…xã hội công dân sẽ tự xóa bỏ bản thân, nếu như mọi người đều trở thành những nhà lập pháp…”(6) và “sự tham gia của xã hội công dân vào nhà nước chính trị thông qua các đại biểu, chính là biểu hiện của sự tách rời của chúng và của sự thống nhất chỉ có tính chất nhị nguyên của chúng”(7).
Như vậy, luận điểm đúng đắn theo quan điểm mác-xít về một xã hội công dân đã phủ định luận điệu phi nhà nước của lý thuyết xã hội dân sự của phương Tây, cố tình vạch ra ranh giới bất khả xâm phạm vô lý giữa xã hội dân sự với nhà nước; đồng thời, cũng lật tẩy cái cách mà hiện nay, nhiều tổ chức xã hội dân sự phương Tây (hoặc thúc đẩy, o bế các tổ chức xã hội dân sự trá hình trong mỗi nước) tự cho phép mình can dự vào đời sống chính trị tại nhiều quốc gia với âm mưu thúc đẩy bạo loạn, lật đổ để giành chính quyền, tham gia trực tiếp vào đời sống chính trị, vi phạm đặc trưng cơ bản của xã hội dân sự, như C. Mác khẳng định: “…xã hội công dân là xã hội phi chính trị”(8).
Hai là, mặc nhiên biến xã hội dân sự vốn là bộ phận phức hợp của đời sống xã hội dung chứa nhiều quan hệ xã hội, nhiều giai cấp, tầng lớp và nhiều định chế xã hội khác nhau thành một tập hợp người đồng dạng, đồng quan điểm, bình đẳng và phi giai cấp.
Việc “lập lờ đánh lận con đen” và khuếch trương về một xã hội dân sự tư sản như một khối người đồng dạng, thống nhất, được cấu thành bởi những yếu tố đồng nhất, phi giai cấp, phi xung đột lợi ích là một cách cố tình đơn giản hóa về xã hội dân sự, qua đó hòng nhân rộng mô hình xã hội dân sự giả hiệu, mà ở đó các tổ chức “xã hội dân sự hiền hòa” và các thành viên của nó rất dễ dàng trở thành các công cụ chính trị.
C. Mác chỉ rõ, xã hội công dân là xã hội được phân chia thành các giai cấp, “đẳng cấp”, tầng lớp khác nhau. C. Mác viết: “Giống như xã hội công dân tách khỏi xã hội chính trị, bản thân xã hội công dân cũng phân chia nội bộ nó thành đẳng cấp và địa vị xã hội, mặc dù đẳng cấp và địa vị xã hội này có những quan hệ nhất định với nhau”(9). Bản thân xã hội công dân chứa đựng trong nó nhiều mâu thuẫn, trước hết, đó là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp hay các đẳng cấp khác nhau trong xã hội; là môi trường của các cuộc đấu tranh giai cấp trên mọi phương diện từ chính trị, kinh tế, đến tư tưởng, văn hóa… Về bản chất, xã hội công dân là khu vực dung chứa nhiều tổ chức, cá nhân đa lợi ích, đa thành phần xã hội, với những mối quan hệ và liên kết mềm tự nguyện, tự quản, tính thống nhất, đồng thuận không cao. “Xã hội công dân là xã hội… chỉ nhất thời tập hợp lại để hoàn thành một hành động đơn nhất và tạm thời, rồi sau đó không có thêm một mối liên hệ nào với nhau nữa”(10). Trong nội bộ mỗi tổ chức xã hội công dân luôn xảy ra xung đột và đấu tranh lợi ích, là khu vực không thuần nhất và thiếu tính nhất quán, bởi “cạnh tranh là biểu hiện đầy đủ nhất của cuộc chiến tranh của mọi người chống mọi người đang hoành hành trong xã hội công dân hiện đại”(11); cơ cấu tổ chức và các thành viên hợp nhất hay ly tan bất cứ khi nào, vì “mối liên hệ duy nhất thống nhất họ lại là sự cần thiết tự nhiên, là nhu cầu và lợi ích riêng, là việc duy trì sở hữu của mình và cá nhân vị kỷ của mình”(12). Do tính chất đa dạng, phức tạp và lỏng lẻo này mà các lực lượng, phe phái, đảng phái chính trị luôn tìm cách chi phối, vận động, chia tách, lôi kéo lực lượng xã hội dân sự đi theo mục tiêu chính trị của mình trong cuộc đấu tranh giành quyền lực và các nước phương Tây cũng triệt để lợi dụng đặc điểm trên để mua chuộc, lợi dụng, tạo dựng “ngọn cờ” để chống phá các nước khác về ý thức hệ, thể chế chính trị.