Tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa – Thành quả chung của quá trình đấu tranh vì tiến bộ xã hội, đáp ứng khát vọng của nhân loại tiến bộ

TCCS – Trong những năm qua, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách xuyên tạc thành tựu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xuyên tạc tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì vậy, nhận diện, vạch trần, đấu tranh phản bác các quan điểm xuyên tạc, thù địch, khẳng định bản chất tốt đẹp của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là việc cấp thiết.

1- Nhận diện các quan điểm xuyên tạc, phủ nhận tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Dân chủ là bản chất của chế độ ta, là nền dân chủ bảo đảm tốt nhất quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân, dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, trong đó lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội thống nhất với nhau, kết hợp hài hòa với nhau. Điều đáng nói, các thế lực thù địch đã dùng mọi thủ đoạn, không ngừng tìm cách phủ nhận, xuyên tạc tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chúng ta có thể nhận diện các quan điểm phủ nhận, xuyên tạc tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trên những phương diện chủ yếu sau:

Về mục tiêu: Phủ nhận, xuyên tạc nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bằng các chiêu bài, như đơm đặt, lồng ghép xuyên tạc các vấn đề nhân quyền, dân tộc, tự do tín ngưỡng, tôn giáo… ở Việt Nam, hòng từng bước làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tiến tới xóa bỏ nền tảng tư tưởng chính trị, chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam.

Về chủ thể: Phủ nhận, xuyên tạc nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chủ yếu thông qua các tổ chức, hội, nhóm phi chính phủ khoác áo dân chủ, nhân quyền; một số nhóm phản động người Việt Nam ở nước ngoài; các lực lượng cực hữu, một số nghị sĩ cực đoan ở các nước phương Tây; một số phần tử cơ hội, chống đối chính trị ở trong nước bị các thế lực thù địch mua chuộc, lợi dụng, chỉ đạo.

Về nội dung: Ra sức tuyệt đối hóa, cổ vũ cho dân chủ tư sản phương Tây, mặt khác, tập trung bóp méo, xuyên tạc thành tựu của Đảng, Nhà nước ta trong thực hiện dân chủ, vu cáo Việt Nam “mất dân chủ”, “không có dân chủ”, “vi phạm dân chủ”; đối lập dân chủ với kỷ luật, kỷ cương, với sự quản lý của Nhà nước; quy kết nguyên nhân của “mất dân chủ” là do “một đảng lãnh đạo”, nên Việt Nam phải thực hiện đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước thì mới có dân chủ.

Về hình thức, phương pháp: Các thế lực thù địch thực hiện nhiều hình thức, phương pháp rất tinh vi, xảo quyệt. Chúng kết hợp chống phá về lý luận với lối suy diễn “thổi phồng” các vấn đề xã hội; kết hợp chống phá từ bên ngoài với thúc đẩy hình thành hội, nhóm, tổ chức đối lập ở trong nước. Đặc biệt, chúng ra sức lợi dụng thiếu sót, khuyết điểm của ta trong triển khai quản lý, điều hành đất nước, trong thực thi chính sách xã hội để chống phá. Thâm độc hơn, chúng sử dụng dân chủ, nhân quyền làm điều kiện để gây sức ép, can thiệp vào công việc nội bộ nước ta, gắn hợp tác, viện trợ kinh tế, ngoại giao với yêu sách về dân chủ, nhân quyền. Các luận điệu mà các thế lực đưa ra tỏ vẻ khách quan, khoa học, trăn trở, tâm huyết với vận mệnh quốc gia, dân tộc, thậm chí còn khoác cái áo “nhà dân chủ”, “yêu nước”, nhưng thực chất là để chống phá, xuyên tạc. Hiện nay, lợi dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các thế lực thù địch đã triệt để khai thác mạng xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng để tán phát, lan truyền các luận điệu xuyên tạc, chống phá, phủ nhận tính ưu việt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Về hậu quả, tác hại: Các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của các thế lực thù địch đặc biệt nguy hiểm, gây nên sự hoài nghi, hoang mang, dao động trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với bản chất, tính ưu việt của chế độ dân chủ ở nước ta và khả năng thực thi dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, kích động biểu tình, bạo loạn chống phá Đảng, Nhà nước, hòng làm thay đổi chế độ chính trị của Việt Nam.

2- Tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Dân chủ là một thành tố của hình thái ý thức xã hội. Sự ra đời của nền dân chủ tư sản gắn với sự phủ định biện chứng tư tưởng chuyên chế phong kiến là một bước tiến lớn trong lịch sử xã hội loài người. Chế độ tư sản đã đạt được những thành tựu nhất định trong việc quy định về quyền con người, quyền công dân, góp phần hiện thực hóa một số khát vọng về quyền tự do, dân chủ cơ bản của nhân loại. Chủ nghĩa tư bản đã hình thành được không ít chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước.

Tuy nhiên, chế độ dân chủ tư sản vẫn bộc lộ rất nhiều khiếm khuyết. Chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được mâu thuẫn cơ bản vốn có… Sự suy thoái của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa dưới tác động của đại dịch COVID-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã phơi bày sự thật về bất công xã hội trong xã hội tư bản chủ nghĩa…

Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, quyền lực của nhân dân đã bị biến thành quyền lực của giai cấp tư sản, do vậy những thứ mà các thế lực thù địch đưa ra để minh chứng cho nền dân chủ tư sản chỉ là sự ngụy biện, mị dân, quyền lực chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Pháp luật của nhà nước tư sản là ý chí của giai cấp tư sản được thể chế hóa thành luật, không phải là ý chí của nhân dân; sự phân chia quyền lực theo cơ chế “tam quyền phân lập” theo kiểu phương Tây thực chất là sự phân chia quyền lực trong nội bộ giai cấp tư sản, giữa các thế lực tư bản với nhau. Xã hội tư bản chủ nghĩa không thể vượt qua giới hạn để đạt đến một nền dân chủ  bảo đảm tốt nhất quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân, bởi nó dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Không thể bảo đảm thực thi dân chủ cho người bị bóc lột, cho toàn thể nhân dân khi quyền sở hữu về những tư liệu sản xuất của xã hội còn nằm trong tay một thiểu số kẻ bóc lột.

Thực tiễn các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa, chứng minh cho sự mâu thuẫn giữa khẩu hiệu “tự do, dân chủ” của giai cấp tư sản và hiện thực xã hội, cho giới hạn của chủ nghĩa tư bản. Về thực chất, đó vẫn là chế độ dân chủ cho một thiểu số người, là chế độ bảo vệ quyền lực thống trị của giai cấp tư sản đối với toàn thể nhân dân lao động. Hơn nữa, việc đề cao lợi ích cá nhân, quyền tự do cá nhân đã dẫn đến sự đối nghịch giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, làm cho con người trở nên thực dụng, vị kỷ, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến khuyết tật cố hữu trong xã hội tư bản, như bất bình đẳng xã hội, tình trạng thất nghiệp, sự phân hóa giàu nghèo, sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái…

Luận giải ở trên cho thấy, chế độ dân chủ tư sản tuy đã thể hiện sự vượt trội so với thời kỳ phong kiến nhưng vẫn bộc lộ rất nhiều khiếm khuyết. Dân chủ là một giá trị xã hội, là một thành tố của ý thức xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi quốc gia, dân tộc, trên cơ sở đặc điểm kinh tế, chính trị, địa lý, văn hóa, lịch sử,… của quốc gia, dân tộc mình, có quyền lựa chọn thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá. Bên cạnh đó, một chế độ xã hội tiến bộ dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội sẽ tất yếu thiết lập một nền dân chủ thực sự cho nhân dân, trong đó các quyền con người, quyền công dân được tôn trọng và bảo vệ phải là đích đến của nhân loại tiến bộ.

Cùng với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, một nền dân chủ mới xuất hiện, đánh dấu bước ngoặt trong tiến trình phát triển dân chủ của xã hội loài người. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một nền dân chủ bảo đảm tốt nhất quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân được thiết lập. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga từ thân phận nô lệ đã đứng lên tự giải phóng mình, trở thành những người làm chủ xã hội. V. I. Lê-nin từng khẳng định: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần: Chính quyền xô-viết so với nước cộng hòa tư sản dân chủ nhất thì cũng dân chủ hơn gấp triệu lần”(1). Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời là phù hợp với quy luật phát triển của xã hội loài người, đáp ứng khát vọng hàng nghìn năm của nhân loại tiến bộ.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mà mọi quyền lực đều thực sự thuộc về nhân dân. Đây là nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử – nền dân chủ bảo đảm tốt nhất quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân. Dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Do đó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa giải quyết được một vấn đề cố hữu mà chủ nghĩa tư bản không thể giải quyết được, đó là mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội thống nhất với nhau, kết hợp hài hòa với nhau.

Tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là không thể phủ nhận. Thực tiễn cho thấy, dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước. Nhân dân thực sự làm chủ, tự mình tổ chức và xây dựng xã hội mới, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng cao. Bản chất tốt đẹp cùng với tính ưu việt của nền dân chủ ở nước ta được thể hiện ngày càng sinh động, cụ thể trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các quyền con người, quyền công dân được bảo đảm và thực hiện trên thực tế theo đúng phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(2). Nhân dân thực sự là chủ thể của quyền lực nhà nước, trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…, thông qua cả hình thức làm chủ trực tiếp và làm chủ gián tiếp. Những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước là kết quả của cả một quá trình nỗ lực, phấn đấu bền bỉ, liên tục của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong hiện thực hóa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Điều đó cho thấy, chế độ dân chủ ở nước ta là chế độ mà ở đó “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, được xây dựng dựa trên nền tảng là “liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”(3); là chế độ phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tốt nhất quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân.

Cán bộ phường Cửa Nam, thành phố Hà Nội tiếp công dân, ngày 1-7-2025 _Ảnh: TTXVN