TCCS – Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, có liên quan đến mọi thành viên trong xã hội, do đó việc xác định quyền sở hữu đất đai luôn là vấn đề trọng đại của các quốc gia. Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý – đó là phương thức đúng đắn và hiệu quả nhất đối với sự phát triển của đất nước.

Thu hoạch lúa trên cánh đồng mẫu lớn ở đồng bằng sông Cửu Long _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý
Xét về loại hình quyền, quyền sở hữu đất đai là quyền sở hữu đặc biệt. Tính chất đặc biệt của quyền sở hữu đất đai thể hiện ở những khía cạnh cơ bản sau đây:
Một là, sự đặc biệt về nguồn gốc hình thành – tiền đề cho việc xác lập tính chất xã hội của quyền sở hữu đất đai.
Đất đai có khởi nguồn và là kết quả của quá trình kiến tạo tự nhiên trên vỏ địa cầu. Về phương diện này, khác với các tài sản, tài nguyên thông thường, đất đai không có nguồn gốc từ sự sáng tạo lao động của con người. Tuy vậy, để có thể biến đất đai từ trạng thái tự nhiên thành tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt hay không gian sinh tồn, lại đòi hỏi hao phí sức lao động, trí tuệ, thậm chí là sinh mạng của con người. Do đó, quyền sở hữu đất đai có tính chất xã hội bao trùm và rộng lớn hơn các quyền về tài sản khác. Đây là điều đặc biệt, song ít được chú ý vì trong xã hội hiện đại, người ta thường chỉ quan tâm tới tính năng có thể sử dụng của đất đai, còn nguồn gốc xuất phát của nó lại bị che mờ theo thời gian. Theo đó, quyền sở hữu đất đai, từ bản thân nó đã thuộc về xã hội, không phải là một loại quyền tư nhân điển hình, thuần túy như quyền sở hữu các loại tài sản khác. Đây cũng là căn cứ để xác lập các trình độ xã hội của quyền sở hữu đất đai.
Trình độ xã hội của quyền sở hữu đất đai phụ thuộc vào trình độ phát triển của phân công lao động xã hội và chịu sự tác động bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ở trình độ phát triển đầy đủ nhất, đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Sở dĩ như vậy là vì, đất đai là không gian sinh tồn, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, là kết quả của sự cống hiến, hao phí trí và lực một cách lâu dài, là sinh mệnh của toàn dân, của xã hội. Do đó, sở hữu toàn dân về đất đai sẽ phản ánh được hết sự đóng góp của tất cả thế hệ thành viên trong xã hội trong việc tạo nên loại tài sản đặc biệt này. Trong chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, mọi thành viên trong xã hội đều được hưởng dụng đầy đủ các quyền thuộc về cấu trúc quyền sở hữu. Điều này sẽ không thể xảy ra trong điều kiện sở hữu tư nhân về đất đai. Sở hữu tư nhân về đất đai làm mờ đi nguồn gốc xã hội của đất đai, đồng nhất nguồn gốc tự nhiên, nguyên thủy của đất đai với nguồn gốc lịch sử – xã hội của đất đai khi đất đai đã trở thành tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, không gian sinh tồn của con người. Với ý nghĩa đó, quyền sở hữu đất đai phải được đặt trong mối quan hệ lịch sử – xã hội của sự hình thành đất đai. Thoát ly khỏi mối quan hệ này, cách tiếp cận quyền sở hữu đất đai sẽ mang tính phi lịch sử và giống như việc tiếp cận tài sản trong môi trường chân không.
Hai là, sự đặc biệt về mức độ và phạm vi ảnh hưởng của quyền sở hữu đất đai.
Trong quá trình sinh tồn và lao động, sản xuất, các thành viên trong xã hội dù là chủ thể quản lý, sản xuất, kinh doanh hay là người dân bình thường, đều liên quan trực tiếp tới vấn đề đất đai – với tư cách là tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt hay là cương vực quốc gia, lãnh thổ, không gian sinh tồn của các dân tộc. Với ý nghĩa đó, mối quan hệ giữa con người với con người liên quan tới đất đai là một trong những mối quan hệ thường xuyên, thiết thân với mọi thành viên trong xã hội, và việc giải quyết mối quan hệ này là một trong những vấn đề hệ trọng với mọi quốc gia. Lịch sử giải quyết các quan hệ xã hội liên quan tới đất đai của loài người từ thời cổ đại đến nay luôn chứng kiến những bối cảnh phức tạp, khi công khai, khi âm thầm. Chế độ sở hữu đất đai, quyền sở hữu đất đai luôn được xác lập dựa trên những điều kiện lịch sử – xã hội nhất định. Vì thế, việc bảo hộ quyền sở hữu đất đai của các quốc gia cũng là vấn đề thực tiễn lịch sử. Quan hệ đất đai không thể vượt ra ngoài khuôn khổ chế độ chính trị, con đường phát triển của xã hội và ý chí của giai cấp cầm quyền. Lô-gíc tất yếu đó là bằng chứng thép khẳng định cho tính tương thích giữa quan hệ sở hữu đất đai với chế độ chính trị – xã hội tương ứng.
Ba là, sự đặc biệt về tính chính trị, tính thiêng liêng của quyền sở hữu đất đai.
Ngay sau khi chuyển hóa thành tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, không gian sinh tồn, cương vực quốc gia, đất đai là sự kết tinh bởi trí tuệ, sức lực của những tập đoàn người dưới những chế độ chính trị nhất định. Công cuộc khẩn hoang hay phòng, chống thiên tai không thể là của một số ít người, của một thế hệ, mà là của các thế hệ nối tiếp nhau. Với tính chất đó, quyền sở hữu vốn đã mang tính chất xã hội rộng khắp, lại mang ý nghĩa chính trị, tính thiêng liêng sâu sắc. Bất kỳ sự hy sinh chính nghĩa nào của các thế hệ đi trước để bảo vệ bờ cõi, chế ngự thiên nhiên, đều rất thiêng liêng và là trách nhiệm, bổn phận đối với các thế hệ tiếp nối trong xã hội.
Trong cấu trúc quyền sở hữu đất đai, có đầy đủ quyền năng để các chủ thể được giao quyền có thể sử dụng và khai thác lợi ích từ đất đai. Vì thế, trong xã hội hiện đại, đôi khi người ta lầm tưởng, đồng nhất quyền sở hữu và quyền sử dụng, từ đó không nhận biết đủ sâu sắc về tính chính trị, tính thiêng liêng của quyền sở hữu đất đai. Mọi kết tinh hao phí sức lao động của con người đều thiêng liêng, nhưng đối với đất đai, sự kết tinh đó lớn hơn gấp nhiều lần so với các loại tài sản khác. Tính thiêng liêng của quyền sở hữu đất đai, vì thế, cũng tăng lên gấp bội.
Có thể thấy, tính chất đặc biệt của quyền sở hữu đất đai nổi bật hơn cả là, ngay từ tiền đề hình thành, nó đã thuộc về xã hội và do tính xã hội quy định. Quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội từ trong bản chất của nó, song, đối với các loại tài sản thông thường, quyền sở hữu có thể thuộc về tư nhân và thể hiện tính chất tư nhân. Việc khai thác lợi ích của quyền sở hữu tài sản thông thường có thể được thực hiện một cách đầy đủ trong cấu trúc quyền sở hữu tư nhân. Trái lại, đối với quyền sở hữu đất đai, việc khai thác lợi ích của quyền sở hữu này chỉ có thể thực hiện được một cách đầy đủ trong cấu trúc quyền sở hữu xã hội, đầy đủ hơn cả là ở tính chất toàn dân của quyền sở hữu.
Sở hữu toàn dân về đất đai là phương thức để thực hiện một cách đầy đủ quyền tài sản và hưởng dụng lợi ích lớn nhất từ quyền sở hữu. Trong cấu trúc quyền sở hữu tư nhân về đất đai, lợi ích và sự hưởng dụng lợi ích từ quyền sở hữu vẫn có thể được thực hiện, tuy nhiên đó không phải là lợi ích lớn nhất, chưa phải là sự tối đa hóa lợi ích, bởi vì, với quyền sở hữu này, hàng loạt quyền mang tính lịch sử của các thế hệ người đã bị tước bỏ. Trong chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, không những các quyền sở hữu của thế hệ hiện tại được bảo hộ, mà các quyền sở hữu của các thế hệ từ trong lịch sử cũng được tôn trọng. Như vậy, tính chất đặc biệt của quyền sở hữu đất đai lại được thể hiện rõ hơn so với bất kỳ loại hình tài sản nào và các quyền sở hữu tài sản thông thường nào.