Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và sự vận dụng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong công tác tôn giáo ở Việt Nam hiện nay

TCCS – Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo là cơ sở lý luận và phương pháp luận để Đảng và Nhà nước Việt Nam vận dụng giải quyết tốt vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng gặp mặt Đoàn đại biểu chức sắc, chức việc các tôn giáo, dân tộc thiểu số, nhân sĩ, trí thức, cá nhân tiêu biểu của Thành phố Hồ Chí Minh _Ảnh: TTXVN

Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xem tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền căn bản của con người, nhưng quyền đó phải gắn chặt và đồng hành cùng với lợi ích của đất nước, của dân tộc Việt Nam. Do vậy, quyền ấy chỉ có giá trị đích thực khi nó gắn với độc lập dân tộc, nước không được độc lập thì tôn giáo không được tự do. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, đấu tranh cho độc lập dân tộc chính là đấu tranh cho quyền độc lập, tự do của các tôn giáo, chính vì vậy, đấu tranh giành độc lập cho nước nhà cũng là trách nhiệm của cá nhân và tổ chức tôn giáo. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân phải được tôn trọng và bảo đảm dựa trên cơ sở tôn trọng đức tin tôn giáo của mỗi người và không ai được xâm phạm, ép buộc, cản trở quyền đó. Dù thế giới quan khác nhau, niềm tin khác nhau, song không vì thế mà đối đầu, nghi kỵ, ngược lại phải tôn trọng niềm tin của mỗi người(1). Đấy chính là lý do mà ngay phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) (ngày 3-9-1945) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ tuyên bố “Tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết”.

Kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Nghị quyết số 25-NQ/2003/TW, ngày 12-3-2003, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Về công tác tôn giáo” (Nghị quyết số 25), Đảng đưa quan điểm “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật”. Quan điểm này được thể hiện cụ thể trong vấn đề theo đạo và truyền đạo “Mọi công dân đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật”. Hiến pháp năm 2013 có bước tiến mới trong việc mở rộng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Điều 24 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo… Điều 14 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.

Từ nền tảng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng đến thực tiễn hiện nay cho thấy Việt Nam luôn quan tâm chăm lo đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào. 95% người dân Việt Nam có tín ngưỡng, tôn giáo. Riêng tôn giáo có 41 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được công nhận và cấp đăng ký hoạt động, hơn 26 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số; khoảng 58 nghìn chức sắc; 148 nghìn chức việc hoạt động ở 63 tỉnh, thành phố trong cả nước(2). Hoạt động tôn giáo, lễ hội tôn giáo diễn ra quanh năm và trở thành nét đẹp văn hóa trong đời sống xã hội, như lễ Phật đản của Phật giáo và Tịnh độ Cư sĩ Phật hội; lễ Giáng sinh, Phục sinh của Công giáo, Tin lành; Tết Chôl Ch-nam Th-mây của đồng bào Khơ-mer; Tháng lễ Ra-ma-đan của cộng đồng Hồi giáo (Islam) và Ra-mư-oăn của cộng đồng Hồi giáo Bà-ni…

Tư tưởng tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gắn liền với việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của tín đồ tôn giáo. Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên và chính quyền phải chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào theo đạo, làm cho họ “phần xác no ấm, phần hồn thong dong”(3). Tinh thần của Người đã nâng cao sự nhận thức về đoàn kết dân tộc trong đồng bào theo tôn giáo khi đưa mối quan hệ biện chứng giữa “Kính Chúa, Yêu Nước” và chuyển tải tinh thần đó cho phù hợp với thời đại và niềm tin tôn giáo của tín đồ, chức sắc tôn giáo. Tư tưởng của Người đã được các ngành, các cấp liên quan cụ thể hóa trong công tác hướng dẫn tổ chức, cá nhân hoạt động tôn giáo đúng chính sách, pháp luật, ủng hộ tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo gắn bó đồng hành cùng dân tộc, đậm chất nhân văn của các tôn giáo. Cụ thể Phật giáo xác định đường hướng hành đạo “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”, Công giáo “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”; Tin lành với đường hướng “Sống phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và Dân tộc”; Cao đài với đường hướng “Nước Vinh Đạo Sáng”…

Có thể thấy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là cam kết chính trị của người đứng đầu nhà nước với người dân về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, vừa là quan điểm xuyên suốt mà Đảng ta đã bảo vệ và kế thừa trong công tác tôn giáo. Tư tưởng này luôn là định hướng cho cán bộ làm công tác tôn giáo nhận thức đúng, khách quan về giá trị tôn giáo, chấn chỉnh nhận thức sai lệch, tả khuynh của một số cán bộ đối với tôn giáo trong thời điểm lúc bấy giờ và trong thực hiện công tác tôn giáo hiện nay.